cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

90/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 547
  • 20

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

22-07-2013

Ngày 19/4/1994 chồng bà là ông Chang Shin Gung ký hợp đồng cho ông BĐ_Vương Kinh và vợ là bà BĐ_Mã Lệ Ly vay 1.300 lượng vàng SJC bốn số chín. Hợp đồng có thỏa thuận lãi suất tính theo mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho vay tiền ngoại tệ có thời hạn từ 06 tháng trở lên; thời hạn trả nợ là không có thời hạn, khi nào bên cho vay cần lấy lại số vàng thì báo cho bên vay trước 02 tháng. Ngày 28/01/2004 ông Chang Shin Gung chết, để lại di chúc chỉ định cho vợ là bà NĐ_Leung Woo Hye là người duy nhât được ủy thác và thực hiện bản di chúc. Theo di chúc, bà NĐ_Leung Woo Hye được quyền giải quyết mọi tài sản của ông Chang Shin Gung bao gồm động sản và bất động sản ở bất kỳ nơi đâu và thuộc bất kỳ tính chất, chủng loại nào. Vào các ngày 02/5/2007, 28/5/2007 và ngày 18/6/2007 đại diện cho bà NĐ_Leung Woo Hye đã gửi thư yêu cầu ông BĐ_Kinh, bà BĐ_Ly thanh toán khoản vay và lãi suất trong Hợp đồng vay vàng ngày 19/4/1994 nhưng tính đến nay ông BĐ_Kinh, bà BĐ_Ly vẫn chưa thanh toán


89/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 234
  • 11

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

11-07-2013

Sau khi nhà xây xong, mỗi lần về Việt Nam gia đình bà NĐ_Hiên đều ở tại nhà đất trên. Nhưng đến năm 2008, khi bà NĐ_Hiên về Việt Nam thì vợ chồng ông BĐ_Can không cho bà NĐ_Hiên sử dụng nhà. Do đó, bà NĐ_Hiên và anh NĐ_Được yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Can phải giao trả toàn bộ nhà và đất tại số 66A, Quốc lộ 50, xã ML, huyện CĐ, tỉnh LA. Đồng thời, bà NĐ_Hiên yêu cầu được công nhận quyền sở hữu tài sản theo pháp luật Việt Nam vì liên tục từ năm 1998 đến nay bà NĐ_Hiên và anh NĐ_Được thường xuyên về Việt Nam, hiện tại bà NĐ_Hiên cũng đang làm thủ tục để hồi hương về Việt Nam


88/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1038
  • 21

Tranh chấp thừa kế

11-07-2013

Kháng chiến chống Pháp, cụ Lên, cụ Tiền và cụ BĐ_Môn thoát ly tham gia kháng chiến; vợ chồng cụ Mệnh ở nhà với cha mẹ. Khoảng năm 1947, gian nhà ngoài bị giặc Pháp đánh sập. Khi cụ Tiền về hoạt động trong nội thành, đã cùng cha mẹ và các anh chị làm lại phần nhà này để làm quán bán hàng. Năm 1954, vợ chồng cụ Mệnh di cư vào miền Nam; cụ Tiền sống cùng cha mẹ. Năm 1966, bom Mỹ đánh sập gian nhà ngoài và phần lớn gian nhà trong; cả gia đình phải đi sơ tán. Năm 1967, cụ BĐ_Môn trở về thành phố HN công tác, đã làm lại gian nhà trong để gia đình ở. Năm 1968, cụ Lên về làm lại gian nhà ngoài và cùng vợ con ở từ đó. Cố Đề chết năm 1973. Cố Nguyên chết năm 1975. Hai cố chết đều không để lại di chúc. Cụ Mệnh chết năm 1984. Cụ Tiền yêu cầu Tòa án chia nhà đất của cố Đề, cố Nguyên tại số 46 phố NT cho các thừa kế. Ngày 02/6/2008, cụ Tiền chết. Sau khi cụ Tiền chết, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Tiền là cụ NĐ_Dương Oánh Thu (vợ của cụ Tiền), bà NĐ_Nguyễn Thị Kiều, bà NĐ_Nguyễn Hoàng Âm, ông NĐ_Nguyễn Mạnh Hoàng, ông NĐ_Nguyễn Quốc Tước (các con của cụ Tiền) vẫn nhất trí với yêu cầu khởi kiện của cụ Tiền


86/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2076
  • 118

Yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền và hợp đồng đặt cọc

10-07-2013

Nguyên đơn yêu cầu: Hủy Hợp đồng đặt cọc giữa bà BĐ_Tiên và bà LQ_Thùy ngày 4/7/2007 về việc mua bán nhà số 9, tổ 37, HC; hủy Hợp đồng đặt cọc ngày 16/9/2008 giữa bà BĐ_Tiên và bà LQ_Thùy về việc chuyển nhượng lô đất Giấy chứng nhận số H26114 tại số 9 HC; hủy Hợp đồng ủy quyền giữa ông NĐ_Thu và bà BĐ_Tiên ngày 29/11/2006. Yêu cầu tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 63 ngày 27/02/2009 của Tòa án nhân dân thành phố NT về cấm chuyển dịch lô đất Giấy chứng nhận số H26114, diện tích 436m2 đứng tên ông NĐ_Thu.


85/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 297
  • 9

Đòi lại tài sản

10-07-2013

Từ năm 2002 đến năm 2005 bà NĐ_Vũ và ông NĐ_Long nhiều lần gửi tiền về nhờ bà LQ_Dương Chiêu Ngọc và anh BĐ_Lê Nghĩa Tiến (là con của bà LQ_Ngọc) xây dựng một số công trình để thờ cúng. Tổng số tiền đã gửi là 68.835 đô la Úc (quy đổi thành 984.923.000 VNĐ) và cho anh BĐ_Tiến vay 150 triệu đồng tiền Việt Nam. Anh BĐ_Tiến và bà LQ_Ngọc đã xây dựng xong công trình, công trình được định giá là 508.885.000 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu anh BĐ_Tiến trả lại số tiền đã vay và số tiền xây dựng khu nhà thờ còn thừa