cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

78/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 238
  • 6

Tranh chấp thừa kế

28-06-2013

Ông BĐ_Toàn có xuất trình 03 bản “Chúc thư giao quyền thừa kế” đề tên cụ Ca lập ngày 02/1/1996, có chữ ký đề tên ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin nhưng ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin đều cho rằng các ông không ký vào 03 chúc thư trên mà chỉ ký vào 01 tờ giấy trắng do ông BĐ_Toàn nhờ ký để làm thủ tục vay tiền của Ngân hàng, nên không thừa nhận các di chúc trên, nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của 02 cụ cho 08 người con và chia bằng hiện vật; xin được sử dụng nhà gỗ 03 gian và diện tích đất được chia để làm nơi thờ cúng cha mẹ. Đồng thời, đề nghị Tòa án giám định 03 “Chúc thư giao quyền thừa kế” và giám định chữ ký của ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Tin, ông NĐ_Đinh trong 03 chúc thư trên.


77/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 726
  • 31

Đòi lại đất cho thuê

27-06-2013

Tuy nhiên, đất tranh chấp có nguồn gốc của gia đình cụ Còn cho cụ Quế thuê và trước khi cụ Quế được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 thì năm 1993 chính quyền địa phương đã giải quyết tranh chấp và gia đình cụ Quế đã đồng ý trả gia đình cụ Còn 5 lượng vàng. Theo nguyên đơn thì nay gia đình cụ NĐ_Ái có nhiều người (14 người con) nhưng chỉ còn duy nhất một căn nhà trong hẻm là 262/2H HVB nên cũng khó khăn. Đất tranh chấp cụ Quế mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 166m2 (đo đạc thực tế là 209,9m2). Vì vậy, khi giải quyết lại vụ án cũng cần xem xét để đôi bên có thể thương lượng, gia đình cụ Quế có thể hỗ trợ phần nào kinh tế để giảm bớt khó khăn cho gia đinh cụ NĐ_Ái và cũng là phù hợp với đạo lý


76/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1402
  • 35

Tranh chấp quyền sử dụng đất

27-06-2013

Năm 1982, gia đình bà NĐ_Chiếu gia nhập Tập đoàn II và được giao thửa đất số 354, tờ bản đồ số 2, diện tích 1220m2 để canh tác. Năm 1985, Tập đoàn giải thể, không ai sử dụng nên vợ chồng bà NĐ_Chiếu vẫn trực tiếp canh tác trồng rau muống. Tại Báo cáo số 67/BC-UB ngày 12/9/2000 và Báo cáo số 70/BC-UB ngày 20/8/2002 của Ủy ban nhân dân phường 16, quận TB và Quyết định số 7626/QĐ-UB ngày 15/11/2001 của Ủy ban nhân dân thành phố HCM cũng xác định bà NĐ_Chiếu là người sử dụng đất. Tuy nhiên, đến nay bà NĐ_Chiếu vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông BĐ_Trần Triều cho rằng ông có đăng ký theo Chỉ thị 299/TTg (Ông BĐ_Triều không trực tiếp sử dụng đất). Bà NĐ_Chiếu đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng 1.153,1m2 đất cho bà.


74/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 232
  • 3

Tranh chấp thừa kế

26-06-2013

Năm 1981 cụ Tú chết không để lại di chúc. Năm 2001 cụ NĐ_Cùng không ở nhà 238/29 TC mà chuyển về HM ở cùng với cháu. Hiện ông LQ_Tý và bà BĐ_Thoa cùng quản lý, sử dụng nhà đất trên, ông LQ_Tý ở phía trước, bà BĐ_Thoa ở phía sau. Năm 2002 ông LQ_Tý làm thủ tục đăng ký kê khai cho hai cụ và vợ chồng cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Năm 2003 bà BĐ_Thoa mượn sổ đỏ để thế chấp ngân hàng nhưng cụ không cho mượn nên bà BĐ_Thoa mới tranh chấp phần đất phía sau. Ngày 21/12/2007 Uỷ ban nhân dân quận Y đã có Quyết định số 1059 thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đã cấp cho hai cụ. Cụ yêu cầu xác định toàn bộ nhà đất số 238/29 TC là của vợ chồng cụ và chia di sản thừa kế của cụ Tú để lại. Đồng thời cụ yêu cầu phát mãi toàn bộ tài sản để cụ nhận phần của cụ theo quy định của pháp luật.


64/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 311
  • 14

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

12-06-2013

ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/4/1994 và phải làm thủ tục tách sổ đỏ đối với diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông, bà. Nếu Tòa án công nhận hợp đồng này thì ông, bà vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh LQ_Du, chị LQ_Vy và không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông, bà đồng ý trả cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy số tiền tương ứng với diện tích đất mà anh LQ_Du, chị LQ_Vy đã trả theo giá tại Biên bản định giá ngày 22/4/2008 là 4 triệu đồng/m2. Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng này thì ông, bà sẽ có trách nhiệm bồi thường cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy do không thực hiện được hợp đồng, việc bồi thường theo giá thị trường. Ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa thanh toán giá trị quyền sử dụng 5,5m2 đất đã mua của bà LQ_Ngọ và sau đó đã đổi cho ông LQ_Khoa, bà LQ_Lý theo giá thị trường.