cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

457/2014/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 213
  • 3

Ly hôn

20-05-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện Tòa án nhận ngày 25/02/2014 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn - bà NĐ_Trần Hồng Chung, trình bày: Bà và ông BĐ_Ngân tự nguyện tìm hiểu, sống chung năm 1991, có đăng ký kết hôn tại phường Hồng Hà, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Ông bà có 01 con chung tên Phạm Văn Phú, sinh ngày 23/01/1991, hiện nay đã trưởng thành. Quá trình sống chung được 03 năm, ông bà phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân nhau cho đến nay. Bà NĐ_Chung khởi kiện yêu cầu: - Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Ngân; - Về con chung đã trưởng thành, không có yêu cầu. - Về tài sản chung: Không có


04/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 570
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

09-05-2014
TAND cấp huyện

Nguồn gốc đất đang tranh chấp có diện tích 280m (ngang 7m x dài 40m) tọa lạc tại số 12J, khu phố 3, phường TH, thành phố BH, tỉnh ĐN là do bà NĐ_Đỗ Thị Linh (mẹ ruột ông bà) khai phá vào năm 1954, bà NĐ_Linh xây dựng 01 căn nhà, mái lợp tôn, nền xi măng. Năm 1970, bà NĐ_Linh làm thêm 01 căn nhà gỗ lợp tôn ở phía trước để buôn bán, sau dó cho vợ chồng ông BĐ_Lê Văn Cường, bà BĐ_Dương Thị Nhỏ thuê ở và làm xưởng mộc. Quá trình sử dụng nhà đất, bà NĐ_Linh được chính quyền chế độ cũ cấp bản kiểm kê thuế vụ. Năm 1975, gia đình bà NĐ_Linh đi vùng kinh tế mới ở TB, huyện Thống Nhất (nay thuộc huyện TB). Khi đi bà NĐ_Linh đã tháo dỡ toàn bộ tôn của căn nhà đang ở, còn khung tường để lại cho ông BĐ_Cường và bà BĐ_Nhỏ tiếp tục sử dụng, đồng thời giao cho con trai là ông Mai Văn Đông ở lại quản lý nhà và học nghề mộc tại xưởng của ông BĐ_Cường.


18/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3532
  • 156

Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà

08-01-2014
TAND cấp huyện

Do quen biết nên khoảng năm 2007 khi biết vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa có ý định bán hai căn nhà, nhưng cả hai căn nhà đều đang bị thế chấp tại Ngân hàng, nghĩ là mua được giá rẻ nên ông NĐ_Tính hỏi mua và được vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa hứa bán sau khi giải chấp. Vì vậy, khi bà BĐ_Xu cần tiền nói với ông đưa tiền trước để đặt cọc, nhưng do ông NĐ_Tính không đủ tiền đưa một lần, nên lúc bà BĐ_Xu cần tiền ông NĐ_Tính gọi điện về nhà cho em họ là bà LQ_Trần Thị Thu Thủy lấy tiền giao cho bà BĐ_Xu. Khi ở nhà không có tiền thì ông NĐ_Tính hỏi mượn của bạn bè là bà LQ_Nguyễn Thị Lan Cương và bà LQ_Nguyễn Thị Hà để giao cho bà BĐ_Xu. Tông cộng đã giao cho bà BĐ_Xu 1.800.000.000 đồng. Khi giao tiền cho bà BĐ_Xu, bà BĐ_Xu đều viết giấy biên nhận, nhưng lại ghi nhận của những người trực tiếp giao tiền là bà LQ_Thủy, bà LQ_Lan Cương, vì vậy có giấy nợ phần ghi trả tiền cho ai thì chừa trống chưa ghi tên người nhận.


149/2014/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 440
  • 7

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

15-04-2014
TAND cấp huyện

Ông BĐ_Đào Thanh Hà có vay của NĐ_Ngân hàng TMCP Thuận An 250.000.000 (Hai trăm năm mươi triệu) đồng theo họp đồng túi dụng số LTK.CN.01.150111 ngày 17/01/2011. Chi tiết như sau: Thời hạn vay 24 tháng (Từ ngày 17/01/2011 đến ngày 17/01/2013); mục đích vay hỗ trợ tiêu dùng - mua, sửa chữa xe; lãi suất 1,21%/tháng (Tính theo số tiền vay ban đầu); lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn; biện pháp bảo đảm tín chấp. Trong quá trình vay vốn ông BĐ_Hà vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, ngày 15/6/2012 NĐ_Ngân hàng TMCP Thuận An đã ra thông báo thu hồi nợ trước thời hạn và ngày 15/7/2012 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn. Sau khi Ngân hàng ra thông báo trên thì ngày 06/9/2012 ông BĐ_Hà trả lần cuối .


115/2014/HN-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 675
  • 6

Thay đổi việc nuôi con

21-02-2014
TAND cấp huyện

Ông và bà BĐ_Dương Thị Quỳnh Nhung là vợ chồng đã ly hôn theo quyết định số 42/2012/CNTT-HNGĐ-ST ngày 28/2/2012 của Tòa án nhân dân quận X. Nội dung quyết định đã giao con chung là trẻ Đỗ Quế Vy sinh ngày 15/02/2009 cho bà BĐ_Nhung trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Ông NĐ_Tùng cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con thành niên. Nhưng sau khi ly hôn bà BĐ_Nhung lấy lý do đi làm xa để trẻ Quế Vy lại cho bà ngoại và ông NĐ_Tùng chăm sóc, nuôi dưỡng, không hề quan tâm. Nay ông NĐ_Tùng yêu cầu được thay đổi người nuôi con và trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc trẻ Quế Vy. Không yêu cầu bà BĐ_Nhung cấp dưỡng nuôi con.