cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

06/2013/DS-GDT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 315
  • 10

Yêu cầu chia thừa kế

11-01-2013

Theo Đơn khởi kiện ngày 09/5/2006 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Văn Tuấn, anh NĐ_Lê Hữu Trí do bà Lê Thị Ngọc Phượng làm đại diện trình bày: Cha mẹ ông là cụ Lê Văn Lang (chết năm 1994) và cụ Võ Thị Năm (chết năm 1960) có ba người con chung là: ông (NĐ_Lê Văn Tuấn), bà LQ_Lê Thị Xuân và ông Lê Văn Hòa (chết ngày 27/11/1993, có vợ là bà Lê Thị Ngọc Phượng và con là anh NĐ_Lê Hữu Trí). Quá trình chung sống, cha mẹ ông tạo lập được căn nhà dạng thô sơ trên 400m2 đất tại số 58/9 LTHG, phường 6, thành phố MT, tỉnh TG. Mẹ ông chết năm 1960, năm 1975 cha ông chấp nối với cụ BĐ_Lê Thị Hào (không có đăng ký kết hôn) có một người con chung là anh LQ_Lê Văn Hùng. Cụ BĐ_Hào đã có chồng trước và có bốn người con riêng là các anh, chị Lê Thị Thương, LQ_Lê Thị Miển, LQ_Lê Văn Nhật và LQ_Lê Thị Tuyết. Nguồn gốc nhà đất này do bố mẹ ông thuê đất nhà thờ Bình Tạo diện tích khoảng 800m2 đất, trực canh và cất nhà ở.


361/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2580
  • 114

Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

05-09-2013
TAND cấp huyện

Vào năm 1990, ông Phạm Văn Út (tên gọi khác là Phạm Văn Na) là chồng bà NĐ_Nguyễn Thị Sa và ông BĐ_Trần Văn Bình có thoả thuận ông Út cho ông BĐ_Bình thuê quyền sử dụng đất của mình theo giấy đồ ruộng ký ngày 19/5/1990, nội dung ông út đồ ruộng cho ông BĐ_Bình với diện tích Khoảng 45 cao (4.500m2) tại xã TLH, huyện CC với số tiền 07 chỉ vàng 24Kara trong vòng 20 năm kể từ năm 1990 đến năm 2010, trong thời gian 20 năm nếu họ hàng nếu ai chuộc lại thì trả lại số vàng cho ông BĐ_Bình. Hiện nay đã quá thời gian 20 năm và ông Út đã chết, vợ của ông Út là bà NĐ_Nguyễn Thị Sa đến gặp ông BĐ_Bình để chuộc lại đất của mình theo giấy đồ ruộng ký ngày 19/5/1990 nhưng phía ông BĐ_Bình từ chối không đồng ý cho chuộc. Do đó, bà NĐ_Sa khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông BĐ_Bình trả lại diện tích đất ruộng 4.500m2 theo giấy đồ ruộng ký vào ngày 19/5/1990 mà ông Phạm Văn Út (tên gọi khác là Phạm Văn Na) là chồng bà NĐ_Nguyễn Thị Sa và ông BĐ_Trần Văn Bình đã thoả thuận, bà NĐ_Sa sẽ hoàn trả lại 07 chỉ vàng 24kara cho ông BĐ_Bình.


08/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 304
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

08-04-2009

Ngày 01/12/2000, chị NĐ_Võ Thị Như có “Đơn yêu cầu xét xử về quyền sử dụng đất” và bà NĐ_Võ Thị Bình (ủy quyền cho chị NĐ_Như) yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Điệp trả lại diện tích đất mà bà đang sử dụng và nêu chị là người được cụ Luông ủy quyền và cho rằng diện tích đất có tranh chấp là của cụ Luông, còn bà BĐ_Nhiên chỉ là người ở nhờ.


93/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1843
  • 46

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-03-2009

Tại đơn khởi kiện ngày 27/3/2002 và lời khai của ông NĐ_Nguyễn Văn Hoà trong quá trình tố tụng trình bày: Ông được ủy ban nhân dân quận TB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời ngày 20/7/1991 với diện tích đất màu là 2.728m2 thuộc thửa 279, 280, 281, 282, 285. ông có nhường lại cho bà BĐ_Lê Thị Phú một phần diện tích là 4m X 8m = 32m2 để xây dựng nhà ở. Trong quá trình sử dụng, bà BĐ_Phú đã lấn chiếm thêm nên diện tích hiện nay bà BĐ_Phú đang sử dụng là hơn 300m2. Nay ông yêu cầu bà BĐ_Phú phải trả lại diện tích đã lấn chiếm là 271,7m2.


437/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 928
  • 26

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-09-2009

Tại đơn khởi kiện ngày 2/3/2005 và quá trình giải quyết đại diện nguyên đơn là NĐ_Lương Ngọc Trà, trình bày: năm 1975, cụ Trịnh Thị Son là mẹ ông đã chia cho ông 3.275m2 đất, đồng thời chia cho vợ chồng ông BĐ_Bùi Tâm Quang một phần đất giáp đất ông được chia. Trong quá trình sử dụng ông BĐ_Quang đã lấn đất của ông là 646,1m2, nên phần đất của ông hiện chỉ còn 2.610m2; vì vậy ông khởi kiện đòi ông BĐ_Quang trả ông 646,1m2 đất.