cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

414/2015/HSPT: Vụ án Cướp tài sản Phúc thẩm Hình sự

  • 212
  • 7

(Điều 133) Vụ án Cướp tài sản

09-07-2015
TAND cấp tỉnh

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bích Ky, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuyên bố Nguyễn Bích Ky phạm tội “ Cướp tài sản” và tội “Bắt người trái pháp luật” Áp dụng khoản 1 Điều 133; khoản 1 Điều 123; điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 50; Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Bích Ky 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” và 03 (ba) tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”; hình phạt chung cho hai tội là 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2014.


194/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 212
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

13-05-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 28/7/2008 nguyên đơn là bà NĐ_Hoàng Thị Linh trình bày: Bà và ông BĐ_Hoàng Văn Bình là ông em ruột. Do hoàn cảnh gia đình bà rất khó khăn, cha là liệt sỹ, nên năm 1988 bà đi lao động tại Liên Xô cũ. Quá trình lao động, bà gửi hàng, đô la Mỹ (USD) về nước cho ông BĐ_Bình bán và giữ hộ, cụ thể: - 02 lần gửi hàng: Năm 1990 bà gửi 01 thùng hàng, ông BĐ_Bình nhận và bán được 20.000.000đ; năm 1992 bà gửi tiếp thùng hàng thứ 2, ông BĐ_Bình bán và mua giữ hộ bà 01 cây vàng 9999; - 06 lần gửi tiền: Năm 1993 bà gửi hai lần là 5000 USD, năm 1994 gửi hai lần là 4000 USD, năm 1995 và 1996 mỗi năm gửi 2000 USD, tổng số tiền gửi là 13.000 USD.


197/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 212
  • 5

Ly hôn

23-08-2006

Bà Nguyễn Thị Định và ông Vũ Văn Kính đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân quận BĐ trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 1996 thì phát sinh mâu thuẫn, từ tháng 5/2003, mâu thuẫn càng căng thẳng và hai người sống ly thân, tháng 12/2003 bà Định đi khỏi nhà và về ở nhờ nhà chị gái tại số 8 Cù Chính Lan. Bà Định gửi đơn xin ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn. Ông Kính xin đoàn tụ, nếu bà Định kiên quyết xin ly hôn thì ông cũng nhất trí.


275/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 210
  • 7

Tranh chấp thừa kế

21-07-2014

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của cụ Triệu, chia tài sản chung đối với tài sản của cụ My là đúng. Tuy nhiên, về cách chia hiện vật là chưa phù hợp, vì theo Quyết định số 58/2009/QĐ - UB ngày 30/3/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố HN quy định về hạn mức đất được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố HN phải có diện tích tối thiểu không nhỏ hơn 30m2, có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3m trở lên. Lẽ ra, trong trường hợp này Tòa án phải giải thích để các đương sự thương lượng việc phân chia đất, nếu ai cũng có nhu cầu sử dụng thì vẫn phải chia và chỉ có quyền đề nghị cấp chung tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu các đương sự không đồng ý thì phải chia đất theo đúng quy định của Ủy ban nhân dân thành phố HN. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những nội dung trên nhưng vẫn chia đất cho các đương sự, có người không đủ điều kiện để cấp riêng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa phù hợp. Thực tế phần đất giao cho ông BĐ_Hà, ông đã chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Hằng 24m2 từ ngày 25/5/2008 (giấy tờ viết tay), bà Hằng đã đóng thuế nhà đất từ năm 2009, hiện bà Hằng đang quản lý và sử dụng phần nhà đất này, nên Thi hành án không thể giao phần đất này cho ông BĐ_Tấn theo bản án được. Về tố tụng: Tòa án các cấp không đưa bà Hằng tham gia tố tụng để giải quyết triệt để vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng


182/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 210
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

15-06-2006
TAND cấp tỉnh

Tại Bản tự khai ngày 10/06/2005, 26/09/2005 và ngày 25/11/2005 và các Biên bản hòa giải ngày 29/09/2005, 26/10/2005 và ngày 15/11/2005 nguyên đơn bà Huỳnh Thị Anh Đào yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là trị giá nền đất thổ cư thuộc lô 1A3 đường HV có giá trị 600.600.000đ mà vợ chồng được nhận thuộc diện tái định cư theo quyết định số 207 ngày 25/08/2004 của Ủy Ban nhân dân Thành phố LX, về số tiền 61.648.000đ được hỗ trợ di dời hiện ông Tín giữ. Bà yêu cầu tài sản này phải chia đôi, bà xin nhận hiện vật. Bà xác định tiền đóng lô 1A3 cho Ủy ban nhân dân thành phố LX là 91.520.000đ. Về nợ chung: Bà xác định vợ chồng chỉ có nợ ông Long là 2.600.000đ còn các khoản nợ khác bà không thừa nhận.