cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

457/2014/DS-GĐTTranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 202
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-11-2014

Nguồn gốc 6460m2 đất bao gồm thửa 229 diện tích 2.600m2 (đất màu), thửa 230 diện tích 3.500m2 (đất lúa) và thửa 234 diện tích 900m2 (thổ cư và đất vườn) là của cha mẹ ông để lại từ năm 1975 và ông được cấp GCNQSDĐ năm 1996. Đất của ông BĐ_Bình sử dụng giáp ranh với đất của ông và có ranh đất rõ ràng. Năm 1990, ông BĐ_Bình làm nhà cho con là LQ_Huỳnh Phi Phượng không lấn đất của ông, đến năm 1998, xáng múc kênh đổ đất lên đất ông BĐ_Bình lấp mất ranh nên không xác định được ranh. Sau đó, ông BĐ_Bình ban đất lấn sang đất của ông là 150m2. Ranh đất theo GCNQSDĐ là đường thẳng, nay là cong. Khi anh LQ_Phượng sửa nhà có lấn sang đất của ông nên ông làm đơn tranh chấp gửi chính quyền ấp và xã. UBND xã NT A hòa giải thì ông và ông BĐ_Bình thống nhất căn cứ GCNQSDĐ để xác định ranh đất nhưng khi cán bộ xã xuống đo đạc cắm mốc thì ông BĐ_Bình không đồng ý. Vì vậy, ông NĐ_Xuân khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Bình trả lại 150m2 đất lấn chiếm.


227/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 202
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-06-2014

Nguyên đơn ông NĐ_Cao Văn Khoa, bà NĐ_Lâm Thị Ngân trình bày: Năm 1966, ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Bỉnh Họt 02 miếng đất, ông Họt còn lại 01 miếng đất cặp ranh phần đất đã chuyển nhượng, ranh đất giữa ông bà và ông Họt là một cái đường mương, phần lòng mương khoảng 04m, bờ khoảng 02m là của ông bà nhưng ông bà và ông Họt sử dụng chung. Ông bà và ông Họt có giao kết nếu ông Họt chuyển nhượng đất cho người khác thì phải trả lại cho ông bà diện tích đất đường mương và bờ. Năm 1969, do chiến tranh nên gia đình ông bà và ông Họt đều bỏ đi, đến năm 1975 ông bà trở về canh tác trên mảnh đất đã nhận chuyển nhượng của ông Họt, còn phần đất của ông Họt thì ông BĐ_Ong Phát Quân sử dụng. Thời gian này ông bà và ông BĐ_Quân đều không đề cập đến ranh đất. Đến năm 1978, ông bà và ông BĐ_Quân mỗi người sử dụng một mương bến khác nhau nên không còn sử dụng chung cho đến hôm nay.


268/BA/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 202
  • 6

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

05-06-2014
TAND cấp huyện

Ngày 30/9/2011, NĐ_Công ty TNHH Một thành viên Tài chính WPY có ký Hợp đồng tín dụng số 2100347147 với khách hàng là bà BĐ_Cáp Thanh Hưng vay khoản tiền 26.950.000 đồng để mua chiếc xe mô tô hai bánh (YAMAHA,EXCITER). Việc vay được thực hiện bằng cách Công ty thay khách hàng thanh toán phần còn lại của giá xe cho bên bán xe sau khi đã khấu trừ khoản tiền mặt trả trước. Theo hợp đồng, khách hàng sẽ phải thanh toán cho công ty số tiền là 40.185.000 đồng (bao gồm vốn vay và lãi) trong thời gian 15 tháng. Mỗi tháng khách hàng phải thanh toán cho công ty 2.679.000 đồng vào ngày 4 hàng tháng. Kỳ đầu tiên vào ngày 4/11/2011.


127/2013/ DS-GĐT: Đòi lại tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 202
  • 3

Đòi lại tài sản

24-09-2013

Năm 1990, ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh sang định cư tại Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Trước khi xuất cảnh, ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh đã lập giấy tờ ủy quyền cho ông Ngô Văn Biểu (em ruột của bà NĐ_Minh) trông coi quản lý nhà đất nêu trên. Sau khi ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh xuất cảnh, ông Biểu là người trực tiếp quản lý, trông coi nhà đất. Ngày 06/01/1996, ong Biểu đã lập văn bản cam kết sẽ hoàn trả nhà đất cho ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh khi ông bà có yêu cầu. Năm 2002, ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh có ý định hồi hương nên ngày 01/3/2002, ông Biểu đã làm giấy hoàn trả nhà đất cho ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh. Cũng trong thời gian này, ông Biểu bị bệnh nặng nên vợ chồng anh BĐ_Ngô Tiến Dương (con của ông Biểu), chị LQ_Đào Thị Thanh đã chuyển về sống cùng ông Biểu tại căn nhà nêu trên để chăm sóc ông Biểu. Ngày 07/01/2003, ông Biểu chết Sau khi ông Biểu chết thì bà BĐ_Trần Thị Dương (vợ của ông Biểu) và vợ chồng anh BĐ_Dương, chị LQ_Thanh là những người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất của ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh. Năm 2006, vợ chồng anh BĐ_Dương phá bỏ căn nhà cũ, xây nhà mới.


81/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 202
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-02-2013

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2010 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyết trình bày: Mẹ bà cụ Trần Thị Mần (đã chết năm 2006), có thửa đất số 26, tờ bản đồ số 2 thuộc đội 14, thôn 5, xã TX 1, huyện NT, tỉnh QN, diện tích 100m2 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/8/1996. Trên thửa đất này, bà LQ_Tuyết đã xây dựng nhà ở trên diện tích 70m2 đất, còn lại 30m2 hộ gia đình bà BĐ_Trần Thị Bốn liền kề đã xây dựng trại mộc. Theo Biên bản định giá và sơ đồ hiện trạng lập ngày 21/01/2011, thì diện tích đất tranh chấp là 03 phân mảnh có diện tích là 23,78 + 6,38 + 1,87 = 32,03m2, trên đó có tài sản chái lợp tôn là trại mộc của bà BĐ_Bốn. Bà LQ_Tuyết yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà BĐ_Bốn tháo dỡ tài sản gắn liền với diện tích đất tranh chấp, trả lại toàn bộ diện tích đất tranh chấp cho bà.