cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

546/2014/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 4

Ly hôn

17-06-2014
TAND cấp huyện

Năm 2010 do mâu thuẫn căng thẳng nên bà đã nộp đơn ly hôn với ông BĐ_Trân tại Tòa án nhân dân quận GV, Tòa án đã động viên hòa giải, ông BĐ_Trân hứa sẽ khắc phục sửa chữa nên bà đã rút đơn để tạo cơ hội cho vợ chồng về đoàn tụ nhưng đến nay không có kết quả. Nhiều lần bà khuyên can nhưng ông BĐ_Trân không sửa chữa, bà đã chịu đựng cuộc sống bạo hành như thế trong suốt thời gian dài, quá mệt mỏi khổng thể chịu đựng thêm được nữa. Mặc dù còn sống chung một nhà nhưng vợ chồng không còn quan hệ tình cảm từ nhiều năm nay. Bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể duy trì cuộc sống chung, không thể hàn gắn để đoàn tụ vì vậy bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Trân.


136/2014/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

02-04-2014
TAND cấp huyện

Trong phần đất nay ông có đào 1 cái ao có diện tích khoảng 1.700 m2. Năm 1998 ông có chuyển nhượng cho ông BĐ_Nguyễn Văn Duy phần đất ao này, trong hợp đồng không ghi diện tích cái ao là bao nhiêu (tuy nhiên hiện trạng ao vẫn còn nguyên vẹn cho đến nay), ngoài ra theo hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên ông còn cho thêm ông BĐ_Duy mặt trước ao cho thêm 1m, mặt sau cho thêm 1,5m. Tuy nhiên ông BĐ_Duy còn xây cất trên đất của ông NĐ_Ân 1 căn nhà, khi cất nhà ông đồng ý cho ông BĐ_Duy cất nhà để ở trông coi cá vì nghĩ căn nhà cất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông , ông BĐ_Duy không chiếm được.


59/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-02-2014

Năm 1930 cha mẹ các cụ là cố Nguyễn Lượng (chết 1945) và cố Lê Thị Bảy (chết năm 1948) khai hoang đất và dựng nhà ở (hiện nay là số 25 PCT, thành phố KT, tỉnh KT), năm 1937 được chính quyền chế độ cũ cấp quyền sở hữu diện tích 1415m2 đất. Hai cố có 5 người con là cụ NĐ_Nguyễn Thị Lân (tức Long), cụ Nguyễn Thị Báu, cụ NĐ_Nguyễn Thị Thủy, cụ LQ_Nguyễn Văn Man và cụ Nguyễn Lành, cố Lượng chết năm 1945, cố Bẩy chết năm 1948 đều không để lại di chúc.


47/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-04-2009
TAND cấp tỉnh

Năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Đức Dũng tự ý chiếm dụng của gia đình ông diện tích đất 30 m2 để xây cầu trái phép (không có giấy phép) và 138m2 đất sử dụng làm đường đi riêng cho gia đình ông BĐ_Dũng. Toàn bộ diện tích đất chiếm dụng nêu trên là một phần đất thuộc thửa 73, tờ bản đồ số 33 toạ lạc tại ấp Tân Lộc, xã PH, huyện TT, tỉnh BR - VT. Thửa đất trên gia đình ông NĐ_Cường đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T838079 vào sổ số 02750-QSDD/347/QDTJBH vào ngày 07/2/2002. Do đó, ông NĐ_Cường yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Dũng trả lại đường đi, dỡ bỏ cổng, cầu, trả lại đất cho gia đình Ông.


536/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 198
  • 8

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

06-05-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Thanh Ba, bà NĐ_Trương Thị Thanh Hà trình bày: Ngày 10/4/2012, ông NĐ_Ba, bà NĐ_Hà ký hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông BĐ_Lê Văn Hòa đối với nhà đất tại địa chỉ số 5/3B ấp Tam Đông, xã TTT, huyện HM, Thành phố HCM, giá chuyển nhượng là 1.000.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng công chứng, ông BĐ_Hòa đã nhận đủ tiền. Sau đó, ông NĐ_Ba, bà NĐ_Hà làm thủ tục nộp lệ phí trước bạ, thuế thu nhập và đăng bộ sang tên NĐ_Nguyễn Thanh Ba và NĐ_Trương Thị Thanh Hà, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số CH 01704 ngày 04/12/2012 của UBND huyện HM. Nhưng ông BĐ_Hòa và những người đang ở trong căn nhà trên không chịu bàn giao nhà đất đã chuyển nhượng.