cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

92/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 196
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-08-2009
TAND cấp tỉnh

Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Hằng và ông BĐ_Trần Văn Linh là cháu, gọi ông NĐ_Hùng, bà NĐ_Thu là cậu mợ. Năm 1986, vợ chồng ông NĐ_Hùng thấy vợ chồng ông BĐ_Linh không có chỗ ở nên vợ chồng ông NĐ_Hùng cho vợ chồng ông BĐ_Linh cất nhà lá, vách ván, mái tole ở nhờ trên đất ngang 4,5m, dài 8m toạ lạc tại khu phố HĐ, thị trấn LH, huyện LĐ. Hai bên không làm giấy tờ cho ở nhờ nhưng có thoả thuận miệng khi nào vợ chồng ông BĐ_Linh có tiền mua đất thì trả lại đất cho vợ chồng ông NĐ_Hùng. Đến năm 1988, vợ chồng ông BĐ_Linh xin phá bỏ nhà lá cất nhà cấp 4 vì mưa hay dột, vợ chồng ông NĐ_Hùng đồng ý. Cách đây 3-4 năm, vợ chồng ông BĐ_Linh tự ý kêu thợ xây cất thêm chiều dài 6m không hỏi ý kiến vợ chồng ông NĐ_Hùng. Nay vợ chồng ông NĐ_Hùng không cho vợ chồng ông BĐ_Linh ở nữa, yêu cầu trả lại đất, đồng ý hoàn trả lại giá trị nhà theo quy định Nhà nước.


516/2014/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 195
  • 6

Ly hôn

17-06-2014
TAND cấp huyện

Theo tài liệu có tại hồ sơ, nguyên đơn ông NĐ_Trần Trọng Nhung trình bày: ông và bà BĐ_Huỳnh Ngọc Nhàn chung sống có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận kết hôn số 245/KH quyển số 02/2004 ngày 13/12/2004 tại Ủy ban nhân dân phường 10, quận TB, thành phố HCM. Bà BĐ_Huỳnh Ngọc Nhàn bỏ nhà đi từ tháng 03/2011 cho đến nay, ngày 30/10/2013 Tòa án nhân dân quận TB ra quyết định số 33/2013/QDDS-ST tuyên bố bà BĐ_Huỳnh Ngọc Nhàn đã mất tích, ngày mất tích được xác định là 01/04/2013. Nay ông NĐ_Trần Trọng Nhung yêu cầu được ly hôn để ổn định cuộc sống riêng. - Về con chung: Có một con chung tên Trần Trọng Nghĩa, sinh ngày 20/05/2005 Ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bà Như cấp dưỡng nuôi con.


14/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 195
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

14-01-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 02/8/2005 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Sơn Chinh khai: Nhà đất của gia đình bà và nhà đất của gia đình ông BĐ_Phong liền kề. Nguồn gốc diện tích 116m2 đất thổ cư mà gia đình bà đang quản lý, sử dụng là do cha mẹ bà để lại, ngày 25/6/1997 bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc nhà đất của ông BĐ_Phong là của bà Bùi Thị Thương. Năm 1984 bà Thương bán cho ông BĐ_Phong, năm 1987 ông BĐ_Phong xây thành nhà kiên cố. Căn cứ vào khế ước tá điền mà cha bà được cấp năm 1972 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà được cấp thì ranh đất giữa gia đình bà và gia đình ông BĐ_Phong là một đường thẳng, nay lại là đường gãy khúc là do ông BĐ_Phong xây nhà lấn sang một phần đất trống của gia đình bà là 0,23m x 7,3m = l,7m2; khi ông BĐ_Phong xây nhà bà đi vắng nên không biết, khi phát hiện thì ông BĐ_Phong thỏa thuận miệng là cho bà sử dụng phần kiến trúc xây dựng trên đất của bà, cụ thể là cho bà sử dụng chung bức tường nhà do ông BĐ_Phong xây dựng, nên hiện nay căn nhà của bà có phần tường chung với tường bên nhà ông BĐ_Phong.


44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 195
  • 6

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

24-12-2008

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý


203/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 195
  • 14

Tranh chấp quyền sử dụng đất

05-08-2006

Ngày 13/7/2004, cụ NĐ_Nguyễn Hữu Phưởng (tức Hừng) có đơn khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Nguyễn Văn Lĩnh trả lại nhà, đất tọa lạc tại thôn PT, xã MS, huyện Giang Văn, tỉnh HY. Theo phía nguyên đơn trình bày: cụ NĐ_Nguyễn Hữu Phưởng được bố mẹ đẻ là cụ Nguyễn Hữu Quyên để lại một ngôi nhà tre trên diện tích 286m2 đất. Trong thời kỳ chống pháp, nhà bị đốt cháy, cụ NĐ_Phưởng đi công tác nên thửa đất trên cụ gửi họ hàng trông coi. Từ năm 1980 đến năm 1986 cụ NĐ_Phưởng nhờ ông LQ_Tí (là cháu họ) trông đất giúp, ông LQ_Tí có xây một móng nhà 3 gian đất này. Năm 1987 ông LQ_Tí trả đất cho cụ NĐ_Phưởng. Cụ NĐ_Phưởng giao thửa dất cho ông LQ_Nguyễn Văn Sừ (là con trai cụ Đỗ em ruột cụ NĐ_Phưởng) xây nhà ở để trông coi đất,