cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

21/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2168
  • 89

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

23-06-2008
TAND cấp tỉnh

Theo ông NĐ_Bùi Văn Vinh trình bày: ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Mộng kết hôn và chung sống từ năm 1985, ông bà có hai người con chung và có tài sản sản chung là căn nhà 8ố: 542 đường số 25 (NTT), khu phố CXM, thị trấn KL, huyện KL, KG. về căn nhà tuy là tài sản chung nhưng công sức đóng góp tạo dựng phần của ông là chính, vì ông làm trong công ty xi măng Hà Tiên II đã hơn 25 năm, được công ty bán hóa giá và tiền bạc ông đóng góp nhiều hơn vợ để mua căn nhà. Nay ông yêu cầu chia trị giá căn nhà làm ba phần ông hưởng hai phần và bà BĐ_Mộng một phần. Trị giá căn nhà thỏa thuận là 233.910.245đ, ngoài ra trong quá trình chung sống vợ ông có nợ bà LQ_Đình số tiền 168.672.500đ và 1.950 USD, ông xác nhận vợ ông có nợ bà LQ_Đình và ông dự định hỗ trợ tiếp với vợ ông trả nợ cho bà LQ_Đình nhưng bà LQ_Đình lại yêu cầu buộc vợ chồng ông trả nợ quá khắt khe (không thương lượng thỏa thuận được), nên ông yêu cầu chia tài sản chung để vợ ông có phần tiền riêng trả nợ cho bà LQ_Đình.


118/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1475
  • 37

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

23-04-2008
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Linh trình bày: vào năm 1989-1990 ông có chuyển nhượng cho ông BĐ_Mã 3 công đất ruộng tầm, tọa lạc tại ấp TA 1, xã TT, huyện TH, tỉnh KG 3 công X 2 chỉ vàng 24k = 6 chỉ vàng 24k. Năm 1990 ông chuyển nhượng thêm 4,5 công tầm 3m với giá 18 chi vàng 24k (4,5 X 4 chỉ vàng = 24k). Khi chuyển nhượng không có làm giấy tờ gì nhưng ông có hứa khi nào ông BĐ_Mã trả nợ cho ông, ông sè cho chuộc lại 02 công ở sau hè nhà gần đất thổ cư trong 4,5 công (phần này có làm giấy thỏa thuận cho chuộc lại đất). Sau khi chuyến nhượng thì ông canh tác từ năm 1989-1990 đến năm 2003-2004 thì ông cho anh Nguyễn Văn Trường thuê 19,5 công đất, trong đó có 7,5 công ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã, ông cho thuê với giá 1 công = 20 giạ lúa/năm. Đến năm 2005 thì ông BĐ_Mã vào canh tác phần đất 4,5 công tầm 03m đến nay là 2 năm. Phần đất 7,5 công hiện nay ông BĐ_Mã đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất. Phần này năm trong 03 thửa, ông không xác định thửa nhưng ông xác định Phòng tài nguyên môi trường huyện TH đo đạc ngày 12-7-2007 là đúng vị trí đất ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã.


54/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 547
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

14-03-2008
TAND cấp tỉnh

Theo các giấy tờ có trong hồ sơ, thì: Căn nhà tại số 37, quốc lộ 15, phường A, Đặc khu VT - CĐ là tài sản hợp pháp của NĐ_cụ Nha và chồng là Vũ Viết Lãnh, đã được Sở xây dựng đặc khu VT - CĐ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất ngày 4/7/1988. Ngày 02/02/1988, cụ Lãnh và NĐ_cụ Nha làm giấy cho con gái BĐ_Vũ Thị Mơ căn nhà này, giấy có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường A, Thành phố VT (Ngàỵ 14/3/2002 bà BĐ_Vũ Thị Mơ đã được Ủy ban nhân dân tỉnh BR - VT cấp giấy chứng nhận QSH nhà ở và quyền sử dụng đất ở này, mang số 37A, quốc lộ 51 A, phường A, thành phố VT), Ngày 5/7/1988 cụ Lãnh chết, ngày 1/4/1989 NĐ_cụ Nha và con trai LQ_Vũ Viết Phi ký giấy bán cho vợ chồng ông Cao Sơn Thành, bà Đỗ Thị Hoa phần nhà còn lại (ngày 16/5/1989 ông Thành cũng đã được cấp giấy chủ quyền nhà mang số 256/CNSH). Phía sau căn nhà số 37 nêu trên, NĐ_cụ Nha và cụ Lãnh còn có phần đất vườn khoảng hơn 500m2. Khi bán nhà cho ông Thành, NĐ_cụ Nha làm giấy cam kết cho con trai là LQ_Vũ Viết Phi được quyền hưởng 2/3 giá trị căn nhà và đất vườn còn lại, chia cho LQ_ông Phi 1,8 lượng vàng 24 K (trong số 2,8 lượng vàng bán nhà cho ông Thành), giấy có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường A, Thành phố VT (BL 20,21,22). Sau khi bán nhà, NĐ_cụ Nha ở với con gái là BĐ_bà Mơ tại nhà số 37A và được con trai là LQ_Vũ Viết Thần ở nước ngoài gửi tiền về sửa nhà.


25/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 2622
  • 120

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

19-09-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện ngày 23/6/2013, bản khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Linh trình bày: Ngày 26/11/1999 ông và BĐ_Ngân hàng TM-CP Thanh Ân (gọi tắt là BĐ_VTA) ký hợp động lao động không xác định thời hạn. Ngày 03/6/2013 BĐ_VTA ban hành thông báo số 3364 và Quyết định số 4759 ngày 24/7/2013 về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông. Việc BĐ_VTA chấm dứt hợp đồng với ông đã vi phạm nguyên tắc và trình tự xử lý: Không thông báo bằng văn bản cho ông, không có mặt đại diện công đoàn, không chứng minh được lỗi của ông. Sau khi nhận được thông báo của BĐ_VTA chấm dứt hợp đồng lao động với ông, ông đã gửi đơn khiếu nại đến BĐ_VTA 3 lần. Ngày 13/11/2013 BĐ_VTA có thông báo nhận ông trở lại làm việc.


06/2014/LĐ–ST Sơ thẩm Lao động

  • 3889
  • 159

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

24-04-2014
TAND cấp huyện

Ngày 20/6/2007, bà NĐ_Thịnh được Tổng Giám đốc ông Lưu Đức Khánh của BĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Minh Hà ký quyết định số 433/QĐ/NHAB-07 bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành nghiệp vụ Back Office của BĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Minh Hà. Ngày 01/7/2007 ông Khánh tiếp tục ký quyết định số 486/QĐ/NS/NHAB-07 tuyển dụng nhân viên chính thức với nội dung tuyển dụng bà NĐ_Đinh Thị Thanh Thịnh làm việc chính thức tại BĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Minh Hà, chức danh Giám đốc điều hành nghiệp vụ Back Office tại Hội sở và bà NĐ_Thịnh được hưởng mức lương, phụ cấp kinh doanh và các loại phụ cấp khác tương ứng theo quy định của ngân hàng. Căn cứ hai quyết định nêu trên, bà NĐ_Thịnh được phân công công việc: điều hành toàn bộ hoạt động nghiệp vụ Back Office của hệ thống ngân hàng theo đúng pháp luật và nghiệp vụ của ngân hàng; Lập, triển khai, điều hành và quản lý hệ thống về nghiệp vụ Back Office của ngân hàng và báo cáo trực tiếp hoạt động cho Tổng giám đốc.