cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1332
  • 43

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

23-05-2012
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa, ông NĐ_Phạm Văn Tuấn và bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc trình bày: Vào năm 1995, chúng tôi được Ủy ban nhân dân thị xã CM (nay là thành phố CM) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp Tân Trung, xã HT, thành phố CM, có diện tích 2.740m2, nguồn gốc do mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Hai cho tặng. Do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chúng tôi phải đi làm ăn xa không người quản lý đất, đến năm 2006 khi trở về, chúng tôi phát hiện Ủy ban nhân dân xã HT đã tự ý chiếm dụng và phân lô cho thuê. Chúng tôi đã gửi đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết trả lại. Ông Trần Hòa Xuân là BĐ_chủ tịch Ủy ban nhân dân đã dựng lên việc tranh chấp đất này giữa ông và ông Phạm Văn No. Qua 2 cấp Tòa án xét xử, bằng Bản án dân sự phúc thẩm số 201/2006/PTDS ngày 18/05/2006 Tòa án nhân dân tỉnh CM đã tuyên xử buộc phải trả lại tôi hiện trạng phần đất đã nêu trên. Khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi đã gửi đơn với đầy đủ thủ tục hợp lệ để yêu cầu thi hành án. Bằng Quyết định số 1784/QĐ-THA của cơ quan thi hành án dân sự thành phố CM tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn không được thi hành do quyết định sai trái do ông Hứa Minh Hữu ký ban hành có nội dung thu hồi quyền sử dụng phần đất nêu trên của tôi mà không có lý do chính đáng.


23/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 387
  • 9

Ly hôn

06-05-2010

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 18/5/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Hải trình bày: Ông và bà BĐ_Huyền đăng ký kết hôn ngày 15/11/2000. Trước khi kết hôn với nhau, ông NĐ_Hải và bà BĐ_Huyền đều đã có vợ, chồng và có con riêng, nhưng đã ly hôn. Sau kết hôn, ông và bà ở với nhau rất ít, bà BĐ_Huyền thường xuyên về ở tại HP để chăm sóc cho mẹ và con của bà BĐ_Huyền. Đến năm 2001, thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp, nên không thể ở với nhau được. Nay ông làm đơn xin ly hôn.


17/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 538
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

07-04-2010

Bà NĐ_Ca được mẹ là cụ Nguyễn Thị Mỹ uỷ quyền khởi kiện đòi lại toàn bộ diện tích 20 công đất mỹ hiện nay ông BĐ_Dương Văn Thông đang quản lý, sử dụng. Nguồn gốc đất do cụ Mỹ sử dựng từ năm 1945 . Năm 1978 ông Võ Văn Mười (em ruột của bà NĐ_Ca) chém ông BĐ_Thông đứt cánh tay, gia đình bà NĐ_Ca đã bồi thường tiền thuốc, nhưng năm 1979 ông BĐ_Thông đe doạ nên cụ Mỹ và ông Mười bỏ đi nơi khác sinh sống. Toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo thuê sử dụng. Bị ông BĐ_Thông đe doạ, năm 1983 ông LQ_Bảo trả lại đất cho gia đình bà thì ông BĐ_Thông chiếm đất sử dụng, năm 2000 bà NĐ_Ca yêu cầu ông BĐ_Thông trả lại đất của cụ Mỹ, nhưng ông BĐ_Thông không trả nên bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Thông trả lại 20 công đất.


55/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2705
  • 107

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

01-02-2010

Ngày 24/11/2006 hai bên ký hợp đồng mua bán nhà với giá là 28,2 tỷ đồng. Cùng ngày. BĐ_Công ty Duy Anh đưa trước cho ông 5 tỷ đồng và ký luôn biên bản giao nhà và đồng ý cho vợ chồng ông được tạm ở lại 60 ngày. Sau đó, ông thương lượng với ông Tọa giám đốc BĐ_Công ty Duy Anh là hủy bỏ hợp đồng mua bán căn nhà trên, ông sẽ trả lại 05 tỷ và lãi suất nợ quá hạn cho BĐ_Công ty Duy Anh nhưng ông Tọa yêu câu ông phải bồi thường gấp đôi là 10 tỷ đồng, ông không chấp nhận. Tháng 12-2006 Ngân hàng thông báo BĐ_Công ty Duy Anh đã nộp tiền mua nhà vào tài khoản của Ngân hàng, khấu trừ 5 tỷ đồng mà vợ chồng ông đã nhận và các khoản chi phí khác, số tiền còn lại Ngân hàng sẽ khấu trừ khoản nợ vay của Công ty Quế Lâm, còn lại khoản hơn 4 tỷ đồng chuyển vào tài khoản cho ông và mời ông ký để hủy hợp đồng vay, nhưng ông không đống ý.


22/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 4029
  • 245

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

27-09-2010
TAND cấp huyện

Khoảng tháng 10/2007 bà thấy nhà R1- 25 HP 4, Phú Mỹ Hung phường TP Quận Y để bảng cho thuê nhà, do có nhu cầu kinh doanh nên bà liên lạc điện thoại theo số ghi trên bảng thì bà gặp bà LQ_Hoa (chị bà BĐ_Đinh), sau đó bà đến xem nhà gặp mẹ bà BĐ_Đinh khẳng định nhà có đầy đủ giấy tờ nên bà đồng ý thuê và đưa ngay 2000 USD để giữ chỗ, sau đó bà được biết chủ nhà là bà BĐ_Đinh hiện không ở Việt Nam, bà hỏi giấy tờ nhà thì bà LQ_Hoa nói bà BĐ_Đinh giữ giấy tờ nhà ở Đài Loan, bà BĐ_Đinh ủy quyền miệng cho bà LQ_Hoa đứng ra cho thuê căn nhà này bà có ý lo ngại không muốn thuê nhưng do bà BĐ_Đinh gọi điện thoại và gửi tin cho bà bảo đảm căn nhà của bà và yên tâm về việc giao tiền và ký hợp đồng thuê, nên ngày 11/10/2007 bà ký hợp đồng thuê một phần căn nhà bao gồm toàn bộ tầng trệt và tầng lửng với chị bà BĐ_Đinh là bà LQ_Hồ Thị Hoa giá thuê là 2500 USD/ tháng, thời hạn thuê là 6 năm kể từ ngày 01/11/2007 bà đã đặt cọc tiền thuê nhà 6 tháng là 15.000USD, mục đích thuê để làm trụ sở LQ_Cty TNHH Phúc Đạt và kinh doanh nhà hàng ăn uống, hai bên đã bàn giao nhà theo như biên bản bàn giao nhà ngày 01/11/2007.