cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

27/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 2141
  • 125

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

16-09-2013
TAND cấp huyện

Ông thử việc tại BĐ_Công ty cổ phần TyKe từ ngày 01/11/2011 và ký hợp đồng lao động vào ngày 01/02/2012, thời hạn hợp đồng từ ngày 01/02/2012 đến ngày 31/3/2013, vị trí công việc là giám đốc tài chính, mức lương hàng tháng là 42.000.000 đồng. Ngày 31/7/2012 Phòng hành chính nhân sự thông báo công ty quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông và yêu cầu ông bàn giao công việc cho người mới. Ngày 18/8/2012 ông nhận được thông báo số 01/TBCDHĐLĐ-TYKE do giám đốc BĐ_Công ty cổ phần TyKe ký ngày 31/7/2012 về việc chấm dứt hợp đồng lao động số 0102/SG/2012 ký ngày 01/02/2012 giữa công ty TYKE và ông theo Điểm a, Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động và kể từ ngày này ông chấm dứt làm việc tại công ty TYKE. Lý do công ty đưa ra trong thông báo là do ông “thường xuyên không hoàn thành công việc và mô tả công việc do cấp trên phân giao, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chung của công ty và phòng Tài chính kế toán”.


24/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 2443
  • 93

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

06-09-2013
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 01 năm 2013 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông NĐ_Lương Tấn Thanh trình bày: ông vào làm việc BĐ_Công ty cổ phần thực phẩm Hà Hoan từ tháng 7 năm 2011 nhưng đến ngày 09/6/2012 Công ty mới ký hợp đồng lao động với ông, thời hạn 06 tháng, từ ngày 09/6/2012 đến ngày 09/12/2012; công việc phải làm theo bản mô tả công việc; mức lương 2.200.000 đồng. Tháng 9/2012 ông có xin nghỉ phép 02 ngày và được quản lý duyệt đồng ý. Sau khi nghỉ phép vào thì giám đốc cho nghỉ việc và không cho biết lý do và cũng không ban hành quyết định nghỉ việc, không giải quyết các chế độ cho người lao động cho đến thời điểm này.


03/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 3006
  • 148

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

03-09-2013
TAND cấp huyện

Ngày 19 tháng 9 năm 2011, bà NĐ_Chi được Tổng giám đốc BĐ_Công ty Mai Anh triệu tập để họp giải quết về hợp đồng lao động và thông báo rằng sẽ chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 19 tháng 9 năm 2011 và yêu cầu bà NĐ_Chi bàn giao lại toàn bộ công việc, không được tiếp tục đến công ty. Bà NĐ_Chi không đồng ý với yêu cầu trên của ông và yêu cầu cho tiếp tục làm việc, tuy nhiên bị từ chối. Sau ngày 19/9/2011, bà NĐ_Chi không tới công ty làm việc và công ty chấm dứt bảo hiểm y tế đã cấp cho bà NĐ_Chi kể từ ngày 18/10/2011


20/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 1864
  • 74

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

06-08-2013
TAND cấp huyện

Vào ngày 14/5/2012 sau khi kết thúc thành công thời gian thử việc, thì phía BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã chấp nhận tuyển dụng ông NĐ_Khang vào làm việc chính thức (chấp nhận bằng lời nói) và đồng thời gửi cho ông NĐ_Khang một bản hợp đồng lao động, theo đó ông NĐ_Khang được chính thức tuyển dụng vào vị trí Giám đốc kinh doanh và chăm sóc khác hàng trong thời gian 12 tháng kể từ ngày 14/5/2012 với mức lương là 2.000 USD/tháng. Vào ngày 06/6/2012 ông NĐ_Khang đưa ra bản thảo cuối cùng của hợp đồng để các bên ký kết, nhưng vào ngày 12/6/2012 ông Suetsugu Naruhito – Giám đốc điều hành của BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã thông báo cho ông NĐ_Khang biết công ty sẽ chấm dứt việc tuyển dụng ông NĐ_Khang vào ngày 12/6/2012 vì tình hình tài chính khó khăn của công ty, đồng thời yêu cầu ông NĐ_Khang trả lại tài sản (như máy vi tính, thẻ taxi và chìa khóa văn phòng).


02/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 860
  • 20

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

09-01-2013
TAND cấp huyện

Nguyên đơn trình bày: Ông và BĐ_Công ty Bonnataka haghtike International (BĐ_Công ty BHI) có ký hợp đồng lao động số 098/10-HĐLĐ ngày 02/8/2010, hợp đồng xác định thời hạn 01 năm (từ 02/8/2010 đến ngày 01/8/2011), với công việc là đồ họa viên, mức lương 17.500.000 đồng/tháng. Trong quá trình làm việc ông đã nhận được Quyết định nâng bậc và tăng lương vào ngày 01/1/2011 lên 22.000.000 đồng/tháng và ngày 20/7/2011 lên 25.000.000 đồng/tháng với công việc là Kiến trúc sư - Phòng thiết kế. Khi hết hạn hợp đồng (ngày 02/8/2011), ông được công ty thông báo sẽ ký tiếp một hợp đồng xác định thời hạn 01 năm nhưng đến ngày 08/8/2011 ông được yêu cầu ký Hợp đồng lao động thời vụ 08 tháng có giá trị từ ngày 02/8/2011 đến ngày 31/03/2012, phòng nhân sự giải thích rằng đến tháng 04/2012 có thể công ty sẽ ký tiếp hợp đồng lao động với ông. Mặc dù hợp đồng chi ký có 08 tháng nhưng mức lương và vị trí công việc của ông vẫn là kiến trúc sư - Phòng thiết kế cho Dự án tòa nhà Sài Gòn M & C.