cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

484/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1961
  • 23

Thay đổi việc nuôi con

11-06-2015
TAND cấp huyện

Theo nội dung đơn khởi kiện và lời khai của nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Hảo: bà và ông BĐ_Trần Đức Sỹ được Tòa án nhân dân quận TĐ cho ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự số 280/2014/QĐST-HNGĐ ngày 21/8/2014. Theo quyết định, ông BĐ_Sỹ được giao quyền trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng hai con chung là Trần Thanh Duyên, sinh ngày 28/01/2009 và Trần Thanh Thy Diệu, sinh ngày 10/11/2012, bà NĐ_Hảo không cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, kể từ khi ly hôn, ông BĐ_Sỹ và gia định nhiều lần ngăn cản bà NĐ_Hảo thăm con, thậm chí còn đánh đập, lăng mạ, sỉ nhục bà. Đối với con Trần Thanh Duyên, bà NĐ_Hảo phát hiện ông BĐ_Sỹ ba lần để con ở nhà một mình, không cho ăn đúng bữa, để đầu tóc con bù xù, mặt mày lem luốc.


692/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 493
  • 2

Ly hôn

01-06-2015
TAND cấp huyện

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 8 tháng 10 năm 2014, bản khai ngày 25 tháng 11 năm 2014, bản khai ngày 2 tháng 4 năm 2015 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Phan Thị Hải Phương trình bày: Bà và ông BĐ_Thành tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường NCT, Quận X, Thành phố HCM theo Giấy chứng nhận kết hôn số 69, quyển số 01, ngày 30 tháng 6 năm 2010. Quá trình chung sống ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Duy Khánh sinh ngày 21 tháng 3 năm 2011 và Nguyễn Duy Phượng Anh sinh ngày 29 tháng 6 năm 2013. Đời sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do không hòa hợp về tính cách, quan điểm sống, cách ứng xử, ông BĐ_Thành không quan tâm, chăm sóc vợ con. Do mâu thuẫn trầm trọng ông bà đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2014. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Thành để ổn định cuộc sống.


1070/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1777
  • 35

Ly hôn

29-09-2015
TAND cấp tỉnh

Theo nguyên đơn ông NĐ_Trần Tố Xuân trình bày: Ông và bà BĐ_Lê Thị Kim Xam có đăng ký kết hôn vào tháng 11, năm 1982 tại Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 1994, vợ chồng ông chuyển về sống chung bên gia đình vợ và từ đó giữa vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn trong quan điểm và cách sống không còn hòa hợp. Cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, không còn quý trọng và thương yêu nhau nữa. Ông và bà BĐ_Xam đã sống ly thân từ năm 2009 đến nay. Ông nhận thấy hôn nhân không thể kéo dài, không có khả năng đoàn tụ nên ông xin được ly hôn với bà BĐ_Lê Thị Kim Xam.


667/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 349
  • 5

Ly hôn

08-07-2015
TAND cấp tỉnh

Theo nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Ái Ngoan trình bày: Bà và ông BĐ_Lu Huy Quan có tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp giấy chứng nhận kết hôn số 3259, quyển số 11, ngày 13/9/2010. Sau khi kết hôn, ông BĐ_Lu Huy Quan trở về Hoa Kỳ đến tháng 02/2011 ông BĐ_Lu Huy Quan trở về Việt Nam và làm đám cưới. Đến tháng 03/2011 thì ông BĐ_Lu Huy Quan lại trở về Hoa Kỳ và không trở về Việt Nam nữa, do đó, vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ đó đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn nên về quan hệ vợ chồng bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Lu Huy Quan.


684/2014/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 839
  • 5

Ly hôn

30-10-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn ly hôn đề ngày 24/4/2014, tại các biên bản tự khai, hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn ông NĐ_Võ Tấn Linh trình bày: Ông và bà BĐ_Đinh Thị Hữu tự nguyện chung sống với nhau năm 2000, có tồ chức đám cưới và cũng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Thành, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Trước khi chung sống với nhau thì chưa ai có vợ có chồng. Quá trình chung sống, thời gian đầu thì vợ chồng cũng hạnh phúc bình thường và vợ chồng sống tại nhà do người chị của ông cho ở nhờ, cho đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân, do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên hai bên thường xuyên cãi vã và hơn nữa đến cuối năm 2013 thì bà BĐ_Hữu có quan hệ tình cảm với người khác, ông có dùng mọi cách để khuyên can nhưng không được, còn việc bà BĐ_Hữu cho rằng ông có quan hệ với người khác là hoàn toàn không có. Do đó, nay vợ chồng đã sống ly thân, nên ông tự nhận thấy cuộc sống vợ chồng đã không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu được ly hôn với bà BĐ_Hữu.