cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

13/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính

  • 972
  • 21

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng

15-09-2015
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 04/5/2015, bản tự khai ngày 25/6/2015, biên bản đối thoại ngày 06/7/2015 đại diện ủy quyền của người khởi kiện là ông Thân Bình trình bày: Ngày 14/5/2009 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định hành chính số 687/QĐ-UBND-BT về việc Bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và bàn giao mặt bằng 225,3m2 đối với hộ bà NĐ_Nguyễn Thị Sa bị ảnh hưởng trong dự án công trình thủy lợi bờ hữu ven sông Sài Gòn tại phường TX, Quận X với tổng số tiền bồi thường là 31.640.332 đồng. Không đồng ý với phương thức chiết tính tiền bồi thường thu hồi đất tại quyết định trên bà NĐ_Nguyễn Thị Sa đã khiếu nại và sau đó khởi kiện tại Tòa án nhân dân Quận X.


25/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 698
  • 19

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

30-12-2014
TAND cấp huyện

Năm 1970 bà NĐ_Lâm có đăng ký mua căn nhà phố chợ B8 với diện tích đất 120 m2, diện tích xây dựng 164 m2 tại Trung tâm thương mãi TĐ – Chợ Mới. Năm 1975 bộ đội tiếp quản khu Chợ Mới, mượn tạm các dãy phố lầu để làm công tác tiếp quản chính quyền. Sau đó toàn bộ khu Trung tâm thương mãi TĐ được giao cho nhà máy cơ khí A74 quản lý sử dụng nhưng bà NĐ_Lâm và các hộ dân đã mua các căn nhà phố chợ hợp pháp vẫn không được nhà máy cơ khí A74 bồi hoàn. Đến năm 2008, căn hộ B8 của bà NĐ_Lâm bị ảnh hưởng một phần bởi dự án xây dựng đường nối Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài. Ngày 02/5/2013, bà NĐ_Lâm nhận được Quyết định số 2208/QĐ-UBND ngày 23/4/2013 của BĐ_UBND quận TĐ về việc chi trả tiền bồi thường hỗ trợ trong dự án xây dựng đường nối Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài với nội dung chi trả tiền bồi thường hỗ trợ 84 m2 đất và 164 m2 nhà, vật kiến trúc, công trình phụ nằm trong ranh giải tỏa cho bà với tổng số tiền 788.444.000 đồng.


20/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 645
  • 12

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

24-09-2014
TAND cấp huyện

Qua đối thoại, ngày 20/5/2014, BĐ_UBND quận TĐ ban hành Quyết định số 3388/QĐ-UBND về việc chi trả bổ sung tiền bồi thường hỗ trợ trong dự án đầu tư cải tạo kênh Ba Bò trên địa bàn phường Bình Chiểu cho ông NĐ_Nguyễn Mạnh Thảo. Sau khi có quyết định số 3388/QĐ-UBND, ông NĐ_Thảo có ý kiến ông không đồng ý với các khoản: + Về trần nhựa, UBND chỉ mới bồi thường 01 trần, nhà của ông NĐ_Thảo có 02 trần, trên gác và dưới trệt, còn thiếu 29,11 m2, đơn giá 91.000 đồng/m2 là 2.649.010 đồng. + Căn cứ văn bản số 1921/UBND-ĐTMT ngày 02/5/2012 về hỗ trợ chi phí thuê nhà ở tạm cư, ông phải được hỗ trợ chi phí thuê nhà từ khi ông giao nhà, đất cho đến khi có quyết định giao nền tái định cư cộng thêm 06 tháng xây dựng mới, tuy nhiên UBND quận chỉ hỗ trợ đối với thời gian xây mới + Đối với tiền lãi suất do bồi thường chậm, ông yêu cầu tính tiền lãi từ khi có quyết định chi trả số 531/QĐ-UBND ngày 03/2/2010.


13/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 699
  • 14

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư

14-07-2014
TAND cấp huyện

Nhà - đất diện tích 291.6 m2 thuộc thửa đất số 64 - 74, tờ bản đồ 35, tọa lạc tại 15/53 Quốc lộ 1 A, khu phố 6, phường LT, quận TĐ của ông NĐ_Chín bị giải tỏa và được đền bù theo quyết định số 1544/QĐ-UBND ngày 05/3/2013 của BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ về việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ trong dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn từ Nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương (viết tắt là quyết định 1544/QĐ-UBND) có nguồn gốc của bà Đào Thị Thâu đứng bộ, sau đó bà Thâu không sử dụng bán cho Ty Công Chánh để sử dụng làm xa lộ Biên Hòa và xa lộ Đại Hàn. Năm 1968, chế độ cũ sử dụng làm bãi rác Đô Thành. Cũng năm 1968, bà Trương Thị Dậu về sử dụng đất, sau khi bà Dậu chết, con gái bà Dậu tên Tô Thị Kim Hoa và chồng là Tống Văn Ba tiếp tục quản lý sử dụng đất. Sau đó, bà Hoa và ông Ba cho con trai tên Tô Thành Long và con dâu tên Trần Thị Lý sử dụng. Năm 1998, ông Long, bà Lý sang nhượng lại 01 phần nhà- đất cho bà Bùi Phương Liên, bà Liên sử dụng và có kê khai đăng ký nhà, đất theo Nghị định 60 CP, Nghị định 88 CP và quyết định 3376 của UBND Thành phố HCM vào sổ địa chính số 70133230866, tờ bản đồ số 5, thửa 249 do ban kê khai đăng ký phường LT ghi.


11/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 824
  • 10

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

12-05-2014
TAND cấp huyện

Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp. Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp.