10/2012/LĐ-ST: Tranh chấp bảo hiểm xã hội Sơ thẩm Lao động
- 1869
- 19
Sau nhiều lần làm việc cụ thể với BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên về việc thực hiện trích nợ, giải quyết nợ đọng tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (viết tắt là BHXH, BHYT, BHTN) nhưng BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên vẫn không thực hiện nghĩa vụ làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người lao động. Hiện BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên ỹ còn nợ số tiền BHXH, BHYT, BHTN từ tháng 03/2011 đến tháng 9/2012 là 2.650.975.393 đồng. Nay NĐ_Bảo hiểm xã hội quận T yêu cầu Tòa án buộc BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên phải nộp ngay vào quỹ BHXH tổng số tiền nợ đọng còn thiếu hiện tại là 2.650.975.393 đồng trong đó số nợ gốc là 2.398.916.942 đồng, tiền lãi phát sinh là 252.058.451 đồng, yêu cầu trả ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Từ tháng 10/2012 yêu cầu BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên thực hiện trích nộp hàng tháng tiền BHXH, BHYT, BHTN của người lao động theo đúng quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội.
09/2012/LĐST: Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội Sơ thẩm Lao động
- 419
- 10
Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội
Tại đơn khởi kiện ngày 01/8/2011, tại bản tự khai ngày 14/11/2011, biên bản ghi nhận sự việc ngày 22/02/2012 và tại phiên hòa giải ngày 28/6/2012, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Kim Huy trình bày: Vào ngày 02/4/2000, bà vào làm việc tại Phòng khám của bác sĩ BĐ_Nguyễn Quốc Thịnh với mức lương 4.600.000 đồng, đến 01/01/2006 bà ký hợp đồng không thời hạn với Phòng khám và từ tháng 4/2009 lương của bà là 5.400.000 đồng, quá trình làm việc không có sai sót hay bị kỷ luật gì. Ngày 01/10/2010, bà làm đơn xin nghỉ việc vì lý do sức khỏe nhưng không được ông BĐ_Thịnh chấp nhận. Ngày 05/10/2010, ông BĐ_Thịnh họp Phòng khám để nhằm xem lại và xác nhận những vấn đề của Phòng khám và bà không đồng ý với những kết quả của cuộc họp trên. Sau đó ông BĐ_Thịnh thông báo bằng miệng cho bà nghỉ việc ngay ngày 05/10/2010 và báo cho cô Trúc thanh toán tiền lương 3,5 ngày làm việc là 728.000 đồng (mức lương tính là 5.400.000 đồng/tháng) sau khi trừ các khoản nợ tổng cộng là 1.582.000 đồng (bao gồm tiền quỹ đen, tiền nợ tã chưa bàn giao, tiền phiếu khám bệnh bệnh nhân mua mà chưa khám-theo giấy nộp Tòa ngày 15/6/2012) bà còn thiếu lại 854.000 đồng (1.582.000 đồng -728.000 đồng= 854.000 đồng) và bà chưa trả khoản tiền này. Ngày 06/10/2010 bà có đến yêu cầu ông BĐ_Thịnh trả lại đơn xin nghỉ việc nhưng ông BĐ_Thịnh không trả mà giải quyết cho bà nghỉ việc bằng miệng.
08/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người lao động) Sơ thẩm Lao động
- 2505
- 57
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người lao động)
Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của đại diện nguyên đơn NĐ_Công ty Cổ phần Giáo dục Minh Quân (gọi tắt là Công ty): Ngày 07/5/2011, Công ty và ông BĐ_Nguyễn Anh Tú có ký hợp đồng lao động có thời hạn 03 năm, với công việc giáo viên dạy tiếng Anh, mức lương theo hợp đồng là 3.500.000 đồng/tháng; đồng thời hai bên ký hợp đồng đào tạo cùng ngày. Nội dung hợp đồng đào tạo Công ty sẽ huấn luyện đào tạo phương pháp và kỹ năng giảng dạy cho ông BĐ_Tú, mặt khác ông BĐ_Tú cam kết sẽ làm việc cho Công ty ít nhất 03 năm tính từ ngày ký hợp đồng đào tạo, nếu ông BĐ_Tú không làm đủ thời gian đã cam kết thì bồi thường cho Công ty số tiền đào tạo là 5.250 USD (tương đương số tiền 110.250.000 đồng)
03/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 679
- 18
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện, ngày 30/3/2011, bản tự khai và các biên bản hòa giải của nguyên đơn bà NĐ_Ngô Thị Thu Hòa trình bày: Bà là nhân viên thủ kho của phòng đại lý bán hàng thuộc BĐ_Tổng công ty cổ phần Tiên An được tuyển dụng vào làm việc từ 01/1986 và đã ký hợp đồng không xác định thời hạn. Từ tháng 9/2009 đến tháng 4/2011 Tổng công ty không bố trí công việc cho bà. Trong thời gian này bà chỉ hưởng lương cơ bản. Ngày 06/5/2011, Tổng công ty ra quyết định số 76/QĐ-ĐSMN về việc chấm dứt hợp đồng đối với bà kể từ ngày 15/5/2011.
08/2012/ST-LĐ: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 1653
- 30
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/9/2010 và lời trình bày của ông NĐ_Phạm Thanh Ba thì ngày 28/02/2006 ông vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Tiên Sơn (từ đây viết tắt là BĐ_Công ty Tiên Sơn) đến ngày 25/7/2008 hai bên ký kết hợp đồng lao động với thời hạn 3 năm tính từ ngày 25/7/2008. Công việc và địa điểm làm việc là làm theo sự phân công của Công ty (khoán việc) với mức lương 1.500.000 đồng/tháng, ngoài ra được Công ty xét cấp phụ cấp điện thoại, phụ cấp xăng xe, ăn trưa và các loại phụ cấp khác căn cứ vào tình hình và điều kiện sản xuất, kinh doanh của công ty tại từng thời điểm. Từ quy định này hàng tháng ông nhận được mức lương từ 2.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Trong quá trình làm việc ông luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, tuy nhiên 17/11/2009 BĐ_Công ty Tiên Sơn đã ra Quyết định thi hành kỷ luật ông bằng hình thức Buộc thôi việc (sa thải) với lý do “Cố ý làm trái trong công việc gây thiệt hại nghiêm trọng về tình hình kinh doanh, lợi ích của Công ty “.