cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

126/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động

  • 1981
  • 55

Tranh chấp về kỷ luật lao động

19-08-2014
TAND cấp huyện

Vào ngày 24/02/2014 khi báo Tuổi trẻ đăng bài “Rút dầu xe buýt bán cho đầu nậu” đối với 07 số xe và người vận hành xe trong đó có ông thì Bị đơn đã ra Quyết định sa thải ông vào ngày 07/3/2014 với lý do lấy nhiên liệu từ bình chứa nhiên liệu của xe ra ngoài. Do Bị đơn không phổ biến quy chế nên ông không biết việc thưởng phạt khi dư hoặc thiếu dầu nên ông không thể thực hiện theo quy chế. Việc ông bán dầu chỉ là thực hiện theo số đông tài xế của Công ty. Việc sa thải của Bị đơn như trên hoàn toàn sai Bộ luật lao động. Trong đơn khởi kiện, ông yêu cầu Bị đơn bồi thường cho ông các Khoản sau: Buộc Bị đơn hủy Quyết định sa thải số 433 ngày 07/3/2014 và nhận ông trở lại làm việc. Bồi thường 4.000.000 đồng khi đã không ứng cho ông 50% lương trước khi đình chỉ công việc.


125/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động

  • 1788
  • 48

Tranh chấp về kỷ luật lao động

19-08-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn Bảo Tài thì: Ông vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Một Thành Viên Xe Khách An Tâm (Bị đơn) theo Hợp đồng lao động số 0144113 ngày 06/3/2004 với công việc lái xe buýt. Thời hạn hợp đồng là 01 năm. Sau khi kết thúc hợp đồng, hai bên không ký lại hợp đồng mà ông tiếp tục làm việc ở Công ty cho đến khi bị sa thải. Vào ngày 24/02/2014 khi báo Tuổi trẻ đăng bài “Rút dầu xe buýt bán cho đầu nậu” đối với 07 số xe và người vận hành xe trong đó có ông thì Bị đơn đã ra Quyết định sa thải ông vào ngày 07/3/2014 với lý do lấy nhiên liệu từ bình chứa nhiên liệu của xe ra ngoài.


118/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về tiền lương Sơ thẩm Lao động

  • 1733
  • 36

Tranh chấp về tiền lương

28-07-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung trong các bản tự khai, trong các biên bản hòa giải ngày 28/4/2014, ngày 02/7/2014, theo đó ông Phúc đại diện ông NĐ_Quân trình bày: Ngày 24/3/2011, BĐ_Công ty TNHH MTV Xe Khách An Tâm (Sau đây gọi tắt là Công ty xe khách SG) và ông NĐ_Dương Minh Quân ký hợp đồng lao động số 11-50-LX: HĐLĐ, thời hạn 01 năm kể từ ngày 24/03/2011 đến ngày 24/3/2012, chức danh chuyên môn: Nhân viên phục vụ xe buýt, mức lương chính: hệ số lương: 2.51, bậc 12.3, hình thức trả lương theo đơn giá khoán chuyến và qui chế trả lương của công ty từng thời Điểm. Theo hợp đồng thì ông NĐ_Quân là Nhân viên phục vụ xe buýt, tuy nhiên do ông NĐ_Quân có giấy phép lái xe phù hợp với yêu cầu của Công ty nên Công ty đã bố trí ông Làm lái xe từ ngày ký hợp đồng cho đến ngày xảy ra tai nạn.


115/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về tiền lương và tiền đóng bảo hiểm Sơ thẩm Lao động

  • 2263
  • 46

Tranh chấp về tiền lương và tiền đóng bảo hiểm

23-07-2014
TAND cấp huyện

Nguyên đơn vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Bình Việt Mai, Bị đơn từ ngày 04/5/2011, ký hợp đồng chính thức vào ngày 04/7/2011, loại hợp đồng không xác định thời hạn, chức danh Trưởng phòng hành chánh nhân sự. Ngày 01/01/2012 Bị đơn bổ nhiệm Nguyên đơn giữ chức danh Giám đốc nhân sự mức lương 18.000.000 đồng/tháng. Ngày 26/3/2012, Bị đơn ra thông báo tạm giữ lương của Nguyên đơn với lý do Bà Lan, nhân viên phòng hành chánh nhân sự tham ô tiền của Bị đơn. Mặc dù sau đó Bị đơn đã xác định Nguyên đơn không cấu kết, tiếp tay với bà Lan tham ô, và bà Lan cùng Bị đơn cũng đã thống nhất được mức bồi thường và thời gian bồi thường cho Bị đơn nhưng Bị đơn vẫn không thanh toán tiền lương cho Nguyên đơn. Do Bị đơn không trả lương cho Nguyên đơn khiến Nguyên đơn gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống nên ngày 02/7/2012 Nguyên đơn đã nộp đơn xin nghỉ việc.


101/2014/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động

  • 843
  • 31

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

03-07-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện nộp ngày 23/7/2012, các bản tự khai ngày 12/11/2012 và ngày 30/12/2013, các biên bản hòa giải ngày 13/3/2013, ngày 26/3/2013 và ngày 04/3/2014 ông NĐ_Lê Duy Khánh- nguyên đơn trình bày: ông làm việc tại BĐ_Công Ty TNHH Sắt thép Vinh Định từ tháng 4/2008, thời gian thử việc 01 tháng. Đến tháng 5/2008 ký hợp đồng lao động có thời hạn 01 năm, chức danh là nhân viên, đến ngày 1/5/2009 ký tiếp một hợp đồng lao động có thời hạn là 01 năm với chức danh là tổ trưởng tổ bảo trì; mức lương của hai hợp đồng này thì ông không nhớ là bao nhiêu. Đến ngày 2/5/2010 có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, với mức lương trong hợp đồng là 1.744.400đ/tháng và kèm theo phụ lục hợp đồng số 23/2011 ngày 23/6/2011 thì mức lương 2.600.000đ/tháng. Tuy nhiên theo ông ngoài mức lương trên thì ông còn nhận thêm Khoản lương khác, nên tổng mức lương thực nhận của ông là 4.100.000đ/tháng, mức lương này được phía công ty thừa nhận tại biên bản hòa giải tại Phòng LĐTB-XH huyện TU, ngoài ra ông không có chứng cứ khác về mức lương này.