78/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 570
- 11
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn tại toà án, thì: Ngày 20/7/1998, vợ chồng ông NĐ_Can, bà NĐ_Chi có ký giấy tay chuyển nhượng cho vợ chồng ông BĐ_Hồng diện tích đất 325m2, loại đất trồng cây lâu năm. Đất có tứ cận: Đông giáp đất bà NĐ_Chi, tây giáp đất ông Hùng, nam giáp đất bà NĐ_Chi, bắc giáp đường đi, giá chuyển nhượng là 2 cây vàng 24K CP. Thoả thuận bên bán giao giấy tờ đất liên quan cho bên mua làm thủ tục. Diện tích đất chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông NĐ_Can ngày 6/7/1998. Tuy nhiên sau đó ông BĐ_Hồng tự ghi thêm vào giấy là trong diện tích đất chuyển nhượng có 50m2 đất thổ cư và đi làm hợp đồng chuyển nhượng có 50m2 đất thổ cư. Do vậy, nay ông, bà yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng đối với phần 50m2 đất thổ cư, chỉ chuyển nhượng 325m2 đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa 49, tờ bản đồ số 22. Đất toạ lạc tại ấp TN, xã CP, huyện TT, tỉnh BR - VT.
540/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1611
- 43
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Hiền có ông Châu Kim Luân đại diện trình bày: Ngày 24-4-1997, ông BĐ_Phạm Văn Rá có làm hợp dồng viết tay sang nhượng cho bà 2033m2 đất ruộng tại thửa số 13 tờ bản đồ số 4 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng dất số 477/QSDD I do ủy ban huyện Thủ Đức cấp cho ông BĐ_Rá ngày 22-2-1993, với giá 10 lượng vàng 24K (hai bôn đã giao nhận vàng xong). Bà NĐ_Hiền đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế hàng năm, năm 1999 khi có chỉ thị đăng ký kê khai nhà đất, ông BĐ_Rá không chịu sang tên quyền sử dụng đất cho bà.
73/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1542
- 42
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo giấy chuyển nhượng đất viết tay đề ngày 19/5/2003 có nội dung: Vợ chồng bà NĐ_Trần Thị Thương, ông Mai Văn Đây chuyển nhường cho vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Bình, ông BĐ_Phạm Minh Phong một mảnh đất và ruộng, không ghi diện tích, với tổng số tiền là 105.000.000đ. Đưa trước 50.000.000đ, còn lại 55.000.000đ khi chuyển quyền xong sẽ trả hết ( BL 41). Diện tích đất này vợ chồng bà NĐ_Thương đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995. Ngày 10/6/2004, các bên tiếp tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, diện tích đất chuyển nhượng là 20.076m2, có 400m2 đất thổ, còn lại là đất nông nghiệp, bao gồm toàn bộ diện tích đất vợ chồng bà NĐ_Thương đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất, gồm 25 thửa tờ bản đồ số 9, xã LD, huyện ĐĐ (BL 43,44).
14/2008/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 675
- 11
Theo đơn khởi kiện ngày 31-7-2007 và các lời khai tiếp theo tại tòa án sơ thẩm, bà NĐ_Hương trình bày: Từ khi ly hôn, ông BĐ_Trí vẫn cấp dưỡng nuôi con đầy đủ. Tuy nhiên, hiện nay cháu Cảnh đã lớn, các nhu cầu chi phí nuôi dưỡng sinh hoạt ngày càng tăng. Trong khi hiện tại mẹ con bà vẫn đang phải thuê nhà việc làm không ổn định. Còn ông BĐ_Trí hiện có mức thu nhập hàng tháng cao. Do vậy, bà đề nghị ông BĐ_Trí tăng mức cấp dưỡng nuôi con từ 800.000đ/tháng lên 2.000.000đ/tháng.
103/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4715
- 136
Yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật
Nguyên đơn chị NĐ_Lê Thanh Hạ trình bày: Chị và anh BĐ_Hộ đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Các Sơn, huyện TG, tỉnh TH ngày 2-1-2001. Sau khi kết hôn anh BĐ_Hộ lại tiếp tục sang Cộng hòa Séc làm ăn, tháng 9-2001 vợ chồng sinh con, tháng 6-2002 anh BĐ_Hộ về nước đưa con sang trước. Tháng 12-2002 chị cũng làm thủ tục sang Cộng hòa Séc sống với chồng con. Sau đó chị phát hiện trước khi kết hôn với chị, anh BĐ_Hộ đã kết hôn với chị Nina Ploukova ở Cộng hòa Séc. Ngày 11-2-2002 anh BĐ_Hộ đã làm thủ tục ly hôn. Do bị anh BĐ_Hộ lừa dối nên vợ chồng mâu thuẫn, cuối năm 2005 chị đưa con về Việt Nam sống. Xét thấy tình cảm vợ chồng knông còn nên đề nghị hủy hôn nhân trái pháp luật hoặc giải quyết cho chị và anh BĐ_Hộ ly hôn.