32/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1305
- 27
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ngày 20/11/2003, cụ Tiềm lập di chúc (có công chứng chứng thực) cho ông BĐ_Tín lô đất thứ nhất. Ngày 03/12/2003, cụ Tiềm chết. Bà NĐ_Trinh và bà NĐ_Duyên khởi kiện cho rằng trong lô đất thứ nhất thì tài sản chung của cụ Phúc, cụ Tiềm chỉ là 400m2, diện tích đất còn lại là do các ông, bà cùng cụ Tiềm khai phá, lấn rộng ra xung quanh, vì vậy, việc cụ Tiềm lập di chúc cho ông BĐ_Tín lô đất này là không đúng; hơn nữa khi lập di chúc cụ Tiềm bị điếc và lú lẫn, nên đi chúc này không hợp pháp. Đối với lô đất thứ 2, ông BĐ_Tín tự ý kê khai đứng tên là không đúng. Do đó, đề nghị Tòa án chia thừa kế cả hai lô đất trên theo quy định của pháp luật; đối với diện tích đất cụ Tiềm, ông BĐ_Tín đã chuyển nhượng cho ông LQ_Bùi Văn Khang thì yêu cầu ông LQ_Bùi Văn Khang trả lại, ông BĐ_Tín có trách nhiệm trả lại tiền cho ông LQ_Khang.
445/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 355
- 12
Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/7/2006 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn trình bày: - Ông Nguyễn Trung Thu, chết năm 1970 và vợ là bà Nguyễn Thị Nhổ, chết ngày 30/9/2003 đều không để lại di chúc, có 3 con là anh NĐ_Nguyễn Trung Thành, chị NĐ_Nguyễn Thị Viên và anh BĐ_Nguyễn Trung Hải. Tài sản cha mẹ để lại gồm có 02 căn nhà tường và 1 nhà dưới trên 432m2 đất thổ cư tại thửa 79, tờ bản đồ số 10 và 4.251m2 đất lúa đứng tên bà Nhổ. Sau khi cha mẹ chết anh BĐ_Hải quản lý. Anh NĐ_Thành yêu cầu chia toàn bộ tài sản nêu trên theo pháp luật; còn chị NĐ_Viên chỉ yêu cầu chia nhà và đất thổ cư.
431/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 318
- 9
Ngày 5/7/2006, tại đơn xin ly hôn, nguyên đơn là anh Hoàng Văn Linh trình bày: anh và chị Nông Thị Hồng Thắm kết hôn ngày 16/12/1985 do tự nguyện có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường HVT, thành phố TN, tỉnh TN. Trong quá chung sống từ năm 1987 đến năm 2004 thường xuyên xảy ra mâu thuẫn vợ chồng do tính cách không hợp. Từ năm 2004 đến nay hai vợ chồng đã sống ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh Linh xin được ly hôn chị Thắm.
31/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 420
- 12
Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/5/1994 và trong qụá trình tố tụng, nguyên đơn là Ông NĐ_Trịnh Văn Vinh trình bày: Cụ Trịnh Văn Tý (chết năm 1962), có vợ là cụ Phan Thị Tình (chết năm 1977), có 5 ngưòi con chung là: ông Trịnh Văn Năm (chết không rõ năm, có vợ là bà Nguyễn Thị Năm đã chết không rõ năm), có 1 người con là chị LQ_Nguyễn Tĩnh; ông Trịnh Văn Ngò (chết năm 1992), có vợ là bà BĐ_Nguyễn Thị Bích và có 6 người con chung là chị LQ_Trịnh Thị Lệ Phi, anh LQ_Trịnh Thanh Duy, anh Trịnh Thanh LQ_Hưng, anh LQ_Trịnh Văn Như, anh LQ_Trịnh Thanh Hào và chị LQ_Trịnh Thị Thuỳ Dung; bà LQ_Trịnh Thị Lệ Thy; ông NĐ_Trịnh Văn Vinh và bà LQ_Trịnh Thị Lệ Mai (Mừng).
25/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 980
- 17
Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/1995 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông NĐ_Đào Xuân Minh trình bày: Ngôi nhà số 6 ngõ Bảo Khánh là nhà gạch 1 tầng, diện tích 175m2 trên thửa đất số 1666/1, diện tích 278m2, mang bằng khoán điền thổ số 2253 khu Nhà thờ thuộc sở hữu của các cụ tổ họ tộc họ Đào là: Đào Xuân Mậu, Đào Xuân Hương và một số người thân thuộc khác. Năm 1924 cụ Đào Bá Hoan là người được quản lý nhà thờ đã viết di chúc cho cụ Đào Xuân Nhận quản lý ngôi nhà thờ họ Đào này (tài liệu tại hồ sơ án không phản ánh mối quan hệ giữa cụ Mậu, cụ Hương, cụ Nhận trong tộc họ Đào). Năm 1940 cụ Nhận chết đột ngột, ông là con trai duy nhất của cụ Nhận và thuộc ngành trưởng nên được tiếp tục quản lý nhà này, nhưng lúc đó, ông mới được một tuổi nên mẹ ông là cụ Đỗ Thị Xuất (tức Tơ) đã quản lý thay ông.