04/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1179
- 13
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện để ngày 05/11/2007 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Kiều Thị Tú trình bày: Năm 1996, vợ chồng bà có mua 02 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất thổ cư khoảng 160m2 Của gia đình ông BĐ_Lê Văn Ngân tại xã XL, huyện TL, thành phố HN (nay là tổ 11, cụm 2, phường XL, quận TH, thành phố HN). Việc mua bán hai bên có lập hợp đồng, có ghi rõ những tài sản, nhà trên đất và các mặt tiếp giáp của thửa đất. Do vợ chồng bà chưa có hộ khẩu thường trú tại HN, nên chính quyền địa phương không xác nhận việc mua bạn giữa gia đình bà và gia đình ông BĐ_Ngân. Giá mua là 110 cây vàng, bà đã trả đủ cho vợ chồng ông BĐ_Ngân và gia đình ông BĐ_Ngân đã giao nhà, đất cho bà quản lý, sử dụng.
79/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1385
- 35
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Theo đơn kiện ngày 24/6/2006 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Nông Thị Noọng trình bày: chị và anh Toàn Văn Inh kết hôn vào năm 1992 không có đăng ký kết hôn. Trước khi kết hôn chị và anh Inh đều đã lập gia đình và mỗi người đều đã có một con riêng. Quá trình chung sống chị và anh Inh sinh được hai con chung là cháu Toàn Văn Thụ sinh ngày 09/5/1994 và cháu Toàn Thị Vui sinh ngày 14/2/1996. Do mâu thuẫn giữa con chung và con riêng của vợ chồng, anh Inh thường xuyên chửi bới và đuổi chị ra khỏi nhà. Đã nhiều lần 1 Trưởng xóm và chính quyền hòa giải, khuyên can nhưng anh Inh không chịu thay đổi. Anh Inh vẫn chửi bới và tuyên bố không làm ăn với chị nữa làm cho cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, không có hạnh phúc.
61/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 432
- 6
Theo đơn ly hôn đề ngày 10/9/2005 và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mai trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Hà kết hôn năm 1994 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện TY; sau khi kết hôn vợ chồng chị về ở cùng mẹ chồng 2 tháng thì vợ chồng chị ở riêng. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn vì anh Hà làm ăn không bàn bạc với vợ, tự ý làm và vay mượn nên vợ chồng thường xuyên đánh cãi nhau, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn anh Hà.
55/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2984
- 109
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 24/11/2006 hai bên ký hợp đồng mua bán nhà với giá là 28,2 tỷ đồng. Cùng ngày. BĐ_Công ty Duy Anh đưa trước cho ông 5 tỷ đồng và ký luôn biên bản giao nhà và đồng ý cho vợ chồng ông được tạm ở lại 60 ngày. Sau đó, ông thương lượng với ông Tọa giám đốc BĐ_Công ty Duy Anh là hủy bỏ hợp đồng mua bán căn nhà trên, ông sẽ trả lại 05 tỷ và lãi suất nợ quá hạn cho BĐ_Công ty Duy Anh nhưng ông Tọa yêu câu ông phải bồi thường gấp đôi là 10 tỷ đồng, ông không chấp nhận. Tháng 12-2006 Ngân hàng thông báo BĐ_Công ty Duy Anh đã nộp tiền mua nhà vào tài khoản của Ngân hàng, khấu trừ 5 tỷ đồng mà vợ chồng ông đã nhận và các khoản chi phí khác, số tiền còn lại Ngân hàng sẽ khấu trừ khoản nợ vay của Công ty Quế Lâm, còn lại khoản hơn 4 tỷ đồng chuyển vào tài khoản cho ông và mời ông ký để hủy hợp đồng vay, nhưng ông không đống ý.
03/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1352
- 32
Sinh thời cụ Mai Bán và cụ Lê Thị Lời (là cha mẹ của các ông) tạo lập được căn nhà cấp 4 lớp tôl trên 3.300m2 đất tại thôn Cửa Suối, xã CH, thị xã HA (nay là thành phố HA). Năm 1987 cụ Bán chết, ngày 04/01/1994 cụ Lời chết. Diện tích đất nêu trên do bà BĐ_Nguyễn Thị Phụng (vợ của ông Mai Tứ, chết năm 1969, ông Tứ cũng là con của cụ Bán, cụ Lời) quản lý, sử dụng. Vì vậy, các ông yêu cầu chia thừa kế diện tích đất nêu trên cho các con của hai cụ là các ông, bà NĐ_Mai Xuân Hải, NĐ_Mai Xuân Lân, LQ_Mai Thị My, LQ_Mai Thị Tú, LQ_Mai Thị Ý và các thừa kế thế vị của ông Mai Tứ.