cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

3294/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1144
  • 20

Yêu cầu chia thừa kế

05-11-2009
TAND cấp tỉnh

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2005 (Bút lục số 35; 36) của ông Trần Trạch Quyền trình bày thì nội dung vụ án như sau: Ông là con nuôi của bà Huỳnh Bửu Trân. Bà Trân có chồng là ông Đặng Hạnh. Bà Trân chết năm 2000; ông Hạnh xuất cảnh sang năm 1979 và chết tại Malaysia ngày 02/5/1980. Ông Hạnh có một người con riêng là ông Đặng Giọc Hy, hiện đang cư trú tại Mỹ. Tầng trệt của căn nhà số 114/3B NNT, phường 13, quận X là tài sản của bà Trân, ông Hạnh sang lại của ông Tạ Khai Xương, bà Ngô Thị Đoàn với giá tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi ngàn đồng) vào năm 1969. Hàng tháng đóng tiền thuê đất 2.700 đồng (hai ngàn bảy trăm đồng) đến năm 1985 thì ông Xương không thu tiền đất nữa nên bà Trân tiếp tục đóng thuế đất cho Nhà Nước. Trong quá trình sử dụng nhà, ông Hạnh, bà Trân sửa chữa nhà, xây hồ chứa nước, làm nhà vệ sinh và đúc gác giả, lót gạch nền nhà.


3294/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1398
  • 20

Tranh chấp thừa kế

05-11-2009
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2005 (Bút lục số 35; 36) của ông Trần Trạch Quyền trình bày thì nội dung vụ án như sau: Ông là con nuôi của bà Huỳnh Bửu Trân. Bà Trân có chồng là ông Đặng Hạnh. Bà Trân chết năm 2000; ông Hạnh xuất cảnh sang năm 1979 và chết tại Malaysia ngày 02/5/1980. Ông Hạnh có một người con riêng là ông Đặng Giọc Hy, hiện đang cư trú tại Mỹ. Tầng trệt của căn nhà số 114/3B NNT, phường 13, quận X là tài sản của bà Trân, ông Hạnh sang lại của ông Tạ Khai Xương, bà Ngô Thị Đoàn với giá tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi ngàn đồng) vào năm 1969. Hàng tháng đóng tiền thuê đất 2.700 đồng (hai ngàn bảy trăm đồng) đến năm 1985 thì ông Xương không thu tiền đất nữa nên bà Trân tiếp tục đóng thuế đất cho Nhà Nước. Trong quá trình sử dụng nhà, ông Hạnh, bà Trân sửa chữa nhà, xây hồ chứa nước, làm nhà vệ sinh và đúc gác giả, lót gạch nền nhà.


3237/2009/HNST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 483
  • 10

Ly hôn

23-10-2009
TAND cấp huyện

Tại đơn ly hôn đề ngày 10/11/2008, đơn xin vắng mặt đề ngày 26/3/2009 nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Hương khai: Năm 1991 bà Hương và ông Nguyễn Long Châu tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 5, quận PN, hiện có 01 con chung là Nguyễn Long Hải (17/8/1991). Quá trình sống chung giữa vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu, sau đó có mâu thuẫn do không phù hợp về tính tình, bất đồng về quan Điểm sống, năm 1992 bà và con định cư tại Hoa Kỳ, vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Qua thời gian xa cách tình cảm không còn, hiện bà và ông Châu đều có gia đình riêng, nên bà yêu cầu được ly hôn. Về con, bà xin nuôi và không yêu cầu cấp dưỡng con, tài sản chung không có. Vì hoàn cảnh gia đình không có điều kiện về Việt Nam nên xin xét xử vắng mặt


12/2009/HNGD/ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2156
  • 85

Ly hôn

08-10-2009
TAND cấp huyện

Anh Nguyễn Văn Giông và chị Trần Thị Yên xây dựng gia đình hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc và có đến đăng ký kết hôn vào ngày 12/4/1988, tại UBND xã YT, huyện TD, tỉnh HNN (nay là tỉnh NB). Hai vợ chồng anh Giông và chị Yên về chung sống với nhau có hạnh phúc được 12 năm đã có con cái, tài sản chung, chưa có vấn đề gì xảy ra mâu thuẫn lớn. Đến năm 2000 trở lại đây hai vợ chồng đã bất đồng mâu thuẫn do tình tính không hợp, ý kiến quan điểm trái ngược trong cuộc sống gia đình dẫn đến hai vợ chồng cải vã và dùng lời lẽ thiếu sự tôn trọng lẫn nhau, từ đó tình cảm hai vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, việc ai người đó làm.


217/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 567
  • 18

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

18-09-2009
TAND cấp huyện

Nguyên đơn anh NĐ_Đặng Văn Hoa đại diện luôn cho các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo giấy ủy quyền, trình bày theo đơn khởi kiện và lời khai tại tòa: Ngày 21/3/2002, anh chuyển nhượng lại của ông BĐ_Bình và bà BĐ_Lương Thị Doan một phần đất thổ cư diện tích 220m2, ngang 10m giáp lộ xã, dài 22m, với giá tiền là 20.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất, anh đã giao cho ông BĐ_Bình 14.000.000 đồng, số còn lại vào ngày 16/6/2004 anh đã giao trực tiếp cho ông BĐ_Bình 6.000.000 đồng, xem như anh đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông BĐ_Bình / bà BĐ_Doan, anh cũng đã được nhận đất cất nhà ở từ tháng 3/2002 cho đến nay. Khi chuyển nhượng đất ông BĐ_Bình ghi giấy tay là sang nhượng đất thổ cư, lúc này anh cũng biết là diện tích đất của ông BĐ_Bình chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kể cả phần diện tích đất chuyển nhượng cho anh cũng vậy, đến ngày 24/12/2002 ông BĐ_Bình được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.