182/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 303
- 6
Tại Bản tự khai ngày 10/06/2005, 26/09/2005 và ngày 25/11/2005 và các Biên bản hòa giải ngày 29/09/2005, 26/10/2005 và ngày 15/11/2005 nguyên đơn bà Huỳnh Thị Anh Đào yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là trị giá nền đất thổ cư thuộc lô 1A3 đường HV có giá trị 600.600.000đ mà vợ chồng được nhận thuộc diện tái định cư theo quyết định số 207 ngày 25/08/2004 của Ủy Ban nhân dân Thành phố LX, về số tiền 61.648.000đ được hỗ trợ di dời hiện ông Tín giữ. Bà yêu cầu tài sản này phải chia đôi, bà xin nhận hiện vật. Bà xác định tiền đóng lô 1A3 cho Ủy ban nhân dân thành phố LX là 91.520.000đ. Về nợ chung: Bà xác định vợ chồng chỉ có nợ ông Long là 2.600.000đ còn các khoản nợ khác bà không thừa nhận.
16/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 304
- 1
Theo nguyên đơn Sơn Thái Hoàng trình bày: Ông và bà Kim Thị Ánh xây dựng gia đình vào năm 1982 hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LH, huyện CT, tỉnh TV, tại quyển số 1, số đăng ký 116. Quá trình chung sống có 03 người con chung: 1/ Sơn Kim Ngân, sinh năm: 1982; 2/ Sơn Thái Quí, sinh năm: 1985; 3/ Sơn Thái Hòa, sinh năm: 1988. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 1989 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không phù hợp, thường cải vã qua lại trong cuộc sống dẫn đến ly thân, nguyện vọng ông xin được ly hôn với bà Ánh. Trường hợp ly hôn về con chung ông xin được cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên, về tài sản và nợ chung không có nên không yêu cầu.
16/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 461
- 4
Theo nguyên đơn Sơn Thái Hoàng trình bày: Ông và bà Kim Thị Ánh xây dựng gia đình vào năm 1982 hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LH, huyện CT, tỉnh TV, tại quyển số 1, số đăng ký 116. Quá trình chung sống có 03 người con chung: 1/ Sơn Kim Ngân, sinh năm: 1982; 2/ Sơn Thái Quí, sinh năm: 1985; 3/ Sơn Thái Hòa, sinh năm: 1988. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 1989 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không phù hợp, thường cải vã qua lại trong cuộc sống dẫn đến ly thân, nguyện vọng ông xin được ly hôn với bà Ánh. Trường hợp ly hôn về con chung ông xin được cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên, về tài sản và nợ chung không có nên không yêu cầu.
15/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 299
- 1
Theo nguyên đơn anh Phạm Văn Cuộc trình bày: Anh Cuộc yêu cầu xin ly hôn với chị Ôn Thị Hạnh Truyền, về tài sản anh đồng ý để lại hết cho chị Truyền, riêng căn nhà và đất chị Truyền đang sử dụng là của chị ruột anh ở nước ngoài gửi tiền về mua cho chị Phạm Thị Chiến, hiện nay chị Chiến được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất này, anh đề nghị chị Truyền phải trả lại căn nhà và đất nêu trên cho chị Chiến. Về con, nếu chị Truyền không nuôi thì anh xin nuôi cháu Phạm Hữu Tình, sinh năm: 2001 và không yêu cầu chị Truyền cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra anh chị còn nợ người khác khoảng 14 triệu, nhưng không nêu cụ thể ai và anh Cuộc cam kết sẽ trả nợ trên
72/2005/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 446
- 8
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 23/3/2001, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Túy, bà NĐ_Trần Thị Tứ và vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Miểu, bà BĐ_Nguyễn Thị Tiếp có lập giấy tay về việc vợ chồng ông BĐ_Miểu, bà BĐ_Tiếp chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Túy, bà NĐ_Tứ diện tích đất 1.000 m2 với giá 14.000.000đ. Đây là một phần trong tổng số diện tích đất 2.346 m2 thuộc thửa 588, tờ bản đồ 22 xã SN, đã được UBND huyện CT (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Nguyễn Miểu. Diện tích đất chuyển nhượng có tứ cận: Bắc giáp đường 11 rộng 20m, Nam giáp đất ông Tiến rộng 20m, Đông giáp đất ông Nguyễn Văn Thanh, Tây giáp đất còn lại của ông BĐ_Miểu. “Giấy sang nhượng”, do 2 bên lập ngày 23/3/2001 nêu trên đã được UBND xã SN xác nhận ngày 27/3/2001. Thế nhưng, cho đến nay hai bên vẫn chưa làm thủ tục sang tên vợ chồng ông NĐ_Túy.