cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

144/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1145
  • 32

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

04-05-2013
Tòa phúc thẩm TANDTC

Phần đất ở và cây lâu năm diện tích 13.140m2 tọa lạc tại ấp Lê Bát, xã CC, huyện PQ do cụ Hoành (Quành) đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 11/12/1993, có nguồn gốc là do cụ Hoành và cụ Ba khai khẩn. Khi cụ Hoành còn sống, gia đình khó khăn nên cụ thế chấp giấy tờ đất cho bà Đỗ Ngọc Hương vay tiền cùng lãi suất tổng cộng là 40 triệu đồng. Năm 2000 sau khi cụ Hoành chết thì bà có họp gia đình thống nhất bán 1.000m2 đất trong tổng diện tích đất trên để trả nợ, lúc này bà BĐ_Hằng đứng trả nợ cho bà Hương và yêu cầu anh chị em trong gia đình giao giấy đất để cho bà BĐ_Hằng đổi từ giấy xanh sang giấy đỏ cho gia đình. Khi chị em thống nhất cho bà BĐ_Hằng làm chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà BĐ_Hằng tự ý cắt 4.000m2 đất cho bà LQ_Lê Thị Hoa, diện tích còn lại thì bà BĐ_Hằng tự ý chuyển sang tên của bà BĐ_Hằng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa đỏ ngày 31/3/2005 mà không được sự thống nhất của các anh chị em.


25/2013/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 848
  • 9

Yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật

22-04-2013

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2006 và quá trình giải quyết vu kiên, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Vui trình bày: Cụ Trần Quang Tánh và cụ Bùi Thị Lượng có 6 người con là: LQ_Trần Thị Hồng, bà LQ_Trần Thị Soa, ông LQ_Trần Văn Kiên (hiện nay đang cư trú tại Australia), bà Trần Thị Yên, ông Trần Văn Vận và bà NĐ_Trần Thị Vui. Cụ Tánh chết năm 1987, cụ Lương chết năm 1985 đều không LQ_Đức lại di chúc. Bà Yên chết năm 2003, chồng bà Yên là ông Phạm Trọng Nhật chết năm 1947, bà Yên có 2 con là chị Phạm Thị Phận (chị Phận không có chồng, có 1 con là LQ_Phạm Hoàng Tiến) và anh LQ_Phạm Văn Đức.


25/2013/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 308
  • 5

Tranh chấp thừa kế

22-04-2013

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2006 và quá trình giải quyết vu kiên, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Vui trình bày: Cụ Trần Quang Tánh và cụ Bùi Thị Lượng có 6 người con là: LQ_Trần Thị Hồng, bà LQ_Trần Thị Soa, ông LQ_Trần Văn Kiên (hiện nay đang cư trú tại Australia), bà Trần Thị Yên, ông Trần Văn Vận và bà NĐ_Trần Thị Vui. Cụ Tánh chết năm 1987, cụ Lương chết năm 1985 đều không LQ_Đức lại di chúc. Bà Yên chết năm 2003, chồng bà Yên là ông Phạm Trọng Nhật chết năm 1947, bà Yên có 2 con là chị Phạm Thị Phận (chị Phận không có chồng, có 1 con là LQ_Phạm Hoàng Tiến) và anh LQ_Phạm Văn Đức. Ông Trần Văn Vận chết năm 1991, có vợ là bà BĐ_Thân Thị Hoàng Lan, có 3 ngưòi con là BĐ_Trần Quang Tú, LQ_Trần Quang Tình và LQ_Trần Hồng Hà.


20/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 880
  • 14

Tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất ở

20-03-2013

Tại đơn khởi kiện ngày 01/11/2005 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Huyền Thương trình bày: Cha, mẹ của bà là cụ Nguyễn Văn Bông, cụ Phí Thị Nhớn có bốn người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Cường, ông LQ_Nguyễn Hữu Bùi, ông Nguyễn Đức Thiện (đã chết) và bà NĐ_Trần Huyền Thương, về tài sản hai cụ tạo lập hai căn nhà có diên tích 40m2 và 36m2 trên diện tích 812m2đất tại số 28 BPĐ, nhường 16, quận Y, thành phố HCM. Cụ Bông chết năm 1990 không để lại di chúc. Ngày 18/01/1997, cụ Phí Thị Nhớn lập di chúc định đoạt nhà, đất tại số 28 BPĐ, theo đó: ông LQ_Nguyễn Văn Cường được chia căn nhà 36m2 trên diện tích 336m2 đất; ông Nguyễn Đức Thiện và ông LQ_Nguyễn Hữu Bùi được chia chung diện tích 224m2 đất và anh BĐ_Nguyễn Hồng Tiến được chia căn nhà 40m2 trên diện tích 252m2 đất.


17/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 626
  • 12

Yêu cầu chia thừa kế

18-03-2013

Cố Tý chết để lại 15.000m2 đất vườn và 45.000m2 đất ruộng và một số đồ dùng. Sau khi cố Tý chết, mẹ ông sử dụng toàn bộ đất và nhà. Năm 1963, 1964 ông và ông Trác đi lính, năm 1975 ông về lập gia đình ở chung cùng cụ Đê khoảng 1 năm thì lên VL mua nhà ở tại đây. Năm 1975, ông Trác đi nước ngoài đến nay. Ông BĐ_Lương lập gia đình năm 1960, ở chung cùng cụ Đê, sau đó trốn quân dịch phải đi địa phương khác, vợ con ông BĐ_Lương vẫn ở cùng cụ Đê, khi giải phóng ông BĐ_Lương cũng mới về quê. Sau năm 1975, cụ Đê vẫn quản lý toàn bộ đất. Năm 1976, cụ Đê tạm chia cho ông 15.000m2 đất ruộng, nhưng ông BĐ_Lương chỉ đo cho ông 12.000m2 và 4.000m2 đất vườn. Cụ Đê sử dụng 10.000m2 đất vườn để thờ cúng và 5.000m2 đất ruộng, còn lại ông BĐ_Lương sử dụng 28.000m2 đất ruộng. Năm 1979, đưa toàn bộ đất ruộng mở Tập đoàn, đến năm 1981 tan rã Tập đoàn, ông BĐ_Lương lấy luôn cả 5.000m2 đất ruộng của cụ Đê, cụ Đê chỉ sống nhờ đất vườn, nhưng vẫn đóng thuế toàn bộ. Năm 1991, có đoàn đo đạc của Tỉnh đến, ông BĐ_Lương kê khai đứng tên toàn bộ đất ruộng vườn. Năm 1992, cụ Đê chết, ông BĐ_Lương quản lý toàn bộ đất đến nay và ông BĐ_Lương tự ý chia cho các con ông BĐ_Lương một phần.