cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

31/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 619
  • 15

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

01-01-2009

Ngày 26/11/2001, NĐ_Ngân hàng Ánh Dương và bà BĐ_Cao Thị Hoa ký Hợp đồng tín dụng số 09261101/TDH có nội dung; NĐ_Ngân hàng Ánh Dương cho bà BĐ_Cao Thị Hoa vay 1.600.000.000 đồng để mua căn nhà số 1045 NT, phường 14, quận B, thành phố HCM; với thời hạn vay là 84 tháng, kể từ ngày 26/11/2001 đến 26/11/2008; lãi suất của 06 tháng đầu (từ ngày 26/11/2001 đến 26/5/2002) là 0,9%/tháng; kể từ ngày 26/5/2002, lãi suất cho vay được xác định lại 06 tháng một lần, tính theo công thức sau: lãi suất cho vay = lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng, loại lãi suất tính theo tháng của NĐ_Ngân hàng Ánh Dương tại thời điểm thông báo lãi suất + 0,35%/tháng, lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn.


446/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 419
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-09-2009

Năm 1990, cụ BĐ_Trịnh Thị Diễm (mẹ ruột của ông) có cho vợ chồng ông 60m2 đất để cất nhà ở, diện tích đất này là phần đất trồng nằm bên cạnh căn nhà 25/1, khu phố 1, phường TA, quận A của cụ BĐ_Diễm. Đến năm 1995, vợ chồng ông bỏ tiền ra cất nhà vách lá, mái tole, nền ciment để ở từ đó. Năm 1998, để xác định lại việc cho đất, ông đã nhờ cô Nguyễn Tùng Bảo Châu là người hàng xóm viết một tờ giấy cho đất ghi ngày 31/12/1990 thể hiện nội dung mẹ cho ông đất và mẹ ông đã tay vào giấy này. Năm 1999, ông có làm thủ tục kê khai đăng ký nhà đất theo chủ trương chung cả Nhà nước và lấy số nhà 25/1A (số này do Ủy ban nhân dân phường cấp tạm). Tháng 8/2001, vợ chồng ông bán căn nhà này cho bà LQ_Phan Thị Thanh Ba và ông LQ_Nguyễn Văn Tín với giá 88.000.000đ. Việc mua bán có làm giấy, khi nhận đủ tiền thì hai bên có ra chứng thực tại phường. Khi vợ chồng ông chuẩn bị giao nhà cho bà LQ_Ba thì cụ BĐ_Diễm tranh chấp và sau đó tự ý tháo dỡ căn nhà của vợ chồng ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu cụ BĐ_Diễm phải trả lại 91,99m2 đất (bao gồm diện tích đất ở 60m2, còn lại là đất khuôn viên) đã cho trước đây. Riêng giá trị căn nhà mà cụ BĐ_Diễm tháo dỡ trị giá khoảng 4.000.000đ, ông đồng ý trừ vào 4.000.000đ còn nợ cụ BĐ_Diễm trước đây.


437/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1125
  • 27

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-09-2009

Tại đơn khởi kiện ngày 2/3/2005 và quá trình giải quyết đại diện nguyên đơn là NĐ_Lương Ngọc Trà, trình bày: năm 1975, cụ Trịnh Thị Son là mẹ ông đã chia cho ông 3.275m2 đất, đồng thời chia cho vợ chồng ông BĐ_Bùi Tâm Quang một phần đất giáp đất ông được chia. Trong quá trình sử dụng ông BĐ_Quang đã lấn đất của ông là 646,1m2, nên phần đất của ông hiện chỉ còn 2.610m2; vì vậy ông khởi kiện đòi ông BĐ_Quang trả ông 646,1m2 đất.


429/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1100
  • 23

Tranh chấp quyền sử dụng đất

11-09-2009

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/3/2004, ngày 25/9/2005 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Trương Anh Định khai như sau: Năm 1994, ông nhận chuyển nhượng của bà Trần Thu Thủy 3.806m2 đất tọa lạc tại khu vực Thới Hưng, phường TL, quận ÔM, thành phố CT. Khu chuyển nhượng không đo đạc thực tế. Ngày 12/7/1994, ông đã được Ủy ban nhân dân huyện ÔM cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C0971177 với diện tích là 3.806m2, chiều ngang thửa đất là 58m. Năm 2003, ông nhờ địa chính đo đạc đề xác định ranh giới đất thì diện tích đất chỉ còn 2.517m2, thiếu 1.289m2 tức là chiều ngang thiếu khoảng 8m, chiều sâu thiếu khoảng 20m. Phần đất bị thiếu này là do các hộ ông Trương Thanh Luân, BĐ_Lê Văn Linh lấn chiếm chiều ngang và hộ ông Lê Hồng Tâm lấn chiếm chiều sâu. Phần đất ông BĐ_Linh lấn chiếm là mương chiều ngang 6m, chiều dài 49,5m, diện tích 297m2. Ông yêu cầu ông BĐ_Linh trả ông 297m2 đất lấn chiếm.


29/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 5005
  • 165

Yêu cầu bồi thường thiệt hại

09-09-2009

Tại đơn khởi kiện đề tháng 9/2004, được sửa đổi ngày 14/4/2005 và các lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, đại diện NĐ_Công ty GERNAI trình bày: Nhãn hiệu thuốc tránh thai khẩn cấp POSTINOR của NĐ_Công ty GERNAI đã được đăng ký quốc tế từ năm 1978 theo Thỏa ước Madrid và sản phẩm đã được giới thiệu tại thị trường Việt Nam từ năm 1992; đến năm 1995 thì được Cục quản lý Dược Bộ Y tế cấp Giấy phép đăng ký số VN 0690-95. Đầu năm 2003, NĐ_Công ty GERNAI đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam và chính thức đăng ký nhãn hiệu thuốc POSTINOR, được Cục sở hữu công nghiệp Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam xác nhận tên thuốc POSTINOR đã đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và được gia hạn lại từ năm 1998. Từ đó, doanh thu của NĐ_Công ty GERNAI trên thị trường Việt Nam về loại sản phẩm này năm sau luôn cao hơn năm trước.