cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

01/2008/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 556
  • 10

Tranh chấp hợp đồng thi công san lấp mặt bằng

10-01-2008

Ngày 01/01/2002 bên A có ký hợp đồng thi công san lấp mặt bằng với BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn An Sơn (gọi tắt là bên B) do Giám đốc Trần Công Hoàng Quốc Trang ký. Hợp đồng thứ nhất số 7A/HĐKT có nội dung: bên B thuê bên A thi công san lấp nền hạ cụm công nghiệp nhựa thuộc Khu công nghiệp Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với các hạng mục:  Khi hoang, nạo vét, dọn dẹp mặt bằng.  San lấp nền hạ bao gồm(đào lắp, vận chuyển, lu nền, đầm nén theo kỹ thuật thiết kế) khối lượng thi công tạm tính là 62.330m2; đơn giá 100.000 đ/m2; thành tiền là 6.233.000.000 đồng. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 đến 30/6/2004. Thực hiện hợp đồng này, bên B đã tạm ứng nhiều lần cho bên A tổng cộng là 4.100.000.000 đồng.


117/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1063
  • 29

Tranh chấp chia di sản

12-09-2013

Năm 1987, cụ Kiều chết, không để lại di chúc. Năm 1989, cụ Thành lập di chúc để lại cho ông BĐ_Lữ được thừa kế căn nhà cùng toàn bộ tài sản, đồ dùng sinh hoạt trong nhà, đồng thời cho bà và cụ Hảo được quyền cư trú trọn đời trong căn nhà nêu trên. Năm 1994, cụ Thành lập di chúc khác có nội dung để lại căn nhà số 416/116 NĐC làm nhà hương hỏa, không hợp thức chủ quyền cho riêng ai; ông BĐ_Lữ và vợ con được sử dụng tầng trệt; bà và cụ Hảo được ở tại tầng lầu cho đến hết đời. Ngày 17/11/1994, cụ Thành chết. Năm 1997, cụ Hảo về Bạc Liêu sống, đến năm 2006 thì chết.


43/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 809
  • 33

Tranh chấp chia di sản

29-08-2012

Sinh thời cụ Thơ và cụ Cúc tạo lập được khối tài sản bao gồm: căn nhà trên 4.000m2 đất tại số 60 đường LVN, khóm Bình Long 3, phường Mỹ Khánh, thành phố LX, tỉnh AG cùng các vật dụng trong gia đình bao gồm: 01 tủ thờ, 02 đi văng, bàn ghế... Hiện tại, ông BĐ_Kỳ, ông BĐ_Thứ và bà cùng quản lý sử dụng căn nhà. Bà BĐ_Bông Quyên sử dụng nhà bếp và chiếm dụng đất của cha mẹ để xây dựng 01 căn nhà và làm hầm nuôi cá. Bà LQ_Như Quyên cũng cất 01 căn nhà trên đất của cha mẹ. Sau khi bà LQ_Như Quyên, chết (năm 2003) thì chị Trần Lệ Nga (con của bà LQ_Như Quyên) sử dụng nhà này.


39/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 828
  • 21

Tranh chấp chia di sản

27-08-2012

Cụ Vương Phước Duyên (chết ngày 21/4/1960) có 02 người vợ: vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Trọng (chết năm 1955), cụ Duyên và cụ Trọng có 2 người con chung là ông Vương Phước Trung (chết ngày 4/6/1998, có vợ là bà Võ Thi Chân, chết ngày 2/11/1996, ông Trung, bà Chân có 5 người con trong đó có anh NĐ_Vương Phước Tề (là nguyên đơn) và ông Vương Phước Thuận (chết ngày 16/12/1986, có vợ là bà Nguyễn Thị Kề chết ngày 26/7/1992, ông Thuận, bà Kề có 12 người con trong đó có anh BĐ_Vương Hùng Quân là bị đơn); vợ thứ hai là cụ Hà Thị Hường (chết năm 1995), cụ Duyên vói cụ Hường không có con chung.


62/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 352
  • 17

Tranh chấp quyền sử dụng đất

07-11-2012

Năm 2001, bà NĐ_Bằng yêu cầu bà LQ_Mai chuyển nhượng 100m2 đất trong diện tích đất mà bà NĐ_Bằng được chia để lấy tiền giao cho bà NĐ_Bằng, lúc đó ông đang ở Bà Rịa - Vũng Tàu có về ký vào giấy chuyển nhượng, nên phần đất còn lại có diện tích thực tế là 367,7m2. Trước khi đi định cư tại Hoa Kỳ (năm 2001) bà LQ_Mai có hứa dỡ nhà trả lại đất cho bà NĐ_Bằng, nhưng sau đó không thực hiện lại giao nhà đất cho con gái của bà là chị BĐ_Phụng quản lý. Ngày 22/9/2005, bà NĐ_Bằng lập giấy ủy quyền cho ông được quyền quản lý sử dụng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với nhà nước; được quyền khiếu nại và tham gia tố tụng trong suốt quá trình cơ quan nhà nước ở Việt Nam giải quyết tranh chấp liên quan tới đất của mẹ ông để lại. Nên ông yêu cầu chị BĐ_Phụng phải di dời nhà trả lại đất để ông quản lý theo sự ủy quyền của bà NĐ_Bằng.