59/2012/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1651
- 44
Cụ Tòng, cụ Dân tạo lập được nhà 62 NCT, phường 3, TH, PY từ năm 1957, cụ Tòng chết không để lại di chúc. Ngày 26/4/1994, cụ Dân lập di chúc có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 3 cùng ngày, phân chia cho bà hưởng thừa kế phần nhà trước 6m X 6,8m, giao phần nhà sau 6m X 7,8m cho anh LQ_Võ Văn Thân (con ông BĐ_Vân) sở hữu. Di chúc do cụ Dân làm và tự đem đến ủy ban nhân dân phường 3 xác nhận, sau 1 - 2 tháng thì cụ Dân đưa di chúc và giấy tờ về nhà đất cho bà giữ, không đưa cho anh LQ_Thân bản nào. Bà lập gia đình năm 1969, ở chung cùng cụ Dân và ông BĐ_Vân tại nhà đất tranh chấp đền năm 1982 bà mua nhà ở riêng tại nhà đang ở hiện nay. Năm 1975 cụ Dân mua cho bà LQ_Giang nhà 20 PĐP, không cho bà và ông BĐ_Vân tài sản nào. Ông BĐ_Vân ở cùng cụ Dân đến năm 1987 thì cụ Dân ngăn nhà trên ở riêng, ăn riêng, còn ông BĐ_Vân ở nhà dưới. Trước đây do ông BĐ_Vân hỗn láo, đối xử với mẹ không ra gì, mẹ bà đã phải gửi đem ra ủy ban nhân dân phường 3 và ủy ban nhân dân phường 3 đã phải giải quyết 3 lần vào năm 1986. Cụ Dân còn viết nhiều nhật ký về việc vợ chồng ông BĐ_Vân đối xử tệ bạc.
501/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1383
- 31
Cụ Kể chết năm 1994, cụ Mật chết năm 1997 khi chết các cụ không để lại di chúc. Tài sản các cụ để lại gồm có: 05 gian nhà ở cấp 4 lợp ngói móc, 02 gian nhà bếp và công trình phụ trên diện tích 264,4m2 đất tại phố Hòa Bình, trị trấn BH. Số tài sản này hiện nay do anh BĐ_Nguyễn Văn Hớn và vợ là chị LQ_Phan Thị Nga đang quản lý sử dụng. Nay các nguyên đơn đều kiện đòi lại quyền quản lý sử dụng nhà đất của bố mẹ để lại để thờ cúng bố mẹ và liệt sĩ Nguyễn Văn Vượng.
117/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 803
- 12
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung
Năm 1987, cụ Kiều chết, không để lại di chúc. Năm 1989, cụ Thành lập di chúc để lại cho ông BĐ_Lữ được thừa kế căn nhà cùng toàn bộ tài sản, đồ dùng sinh hoạt trong nhà, đồng thời cho bà và cụ Hảo được quyền cư trú trọn đời trong căn nhà nêu trên. Năm 1994, cụ Thành lập di chúc khác có nội dung để lại căn nhà số 416/116 NĐC làm nhà hương hỏa, không hợp thức chủ quyền cho riêng ai; ông BĐ_Lữ và vợ con được sử dụng tầng trệt; bà và cụ Hảo được ở tại tầng lầu cho đến hết đời. Ngày 17/11/1994, cụ Thành chết. Năm 1997, cụ Hảo về Bạc Liêu sống, đến năm 2006 thì chết.
43/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 427
- 13
Sinh thời cụ Thơ và cụ Cúc tạo lập được khối tài sản bao gồm: căn nhà trên 4.000m2 đất tại số 60 đường LVN, khóm Bình Long 3, phường Mỹ Khánh, thành phố LX, tỉnh AG cùng các vật dụng trong gia đình bao gồm: 01 tủ thờ, 02 đi văng, bàn ghế... Hiện tại, ông BĐ_Kỳ, ông BĐ_Thứ và bà cùng quản lý sử dụng căn nhà. Bà BĐ_Bông Quyên sử dụng nhà bếp và chiếm dụng đất của cha mẹ để xây dựng 01 căn nhà và làm hầm nuôi cá. Bà LQ_Như Quyên cũng cất 01 căn nhà trên đất của cha mẹ. Sau khi bà LQ_Như Quyên, chết (năm 2003) thì chị Trần Lệ Nga (con của bà LQ_Như Quyên) sử dụng nhà này.
39/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2173
- 108
Cụ Vương Phước Duyên (chết ngày 21/4/1960) có 02 người vợ: vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Trọng (chết năm 1955), cụ Duyên và cụ Trọng có 2 người con chung là ông Vương Phước Trung (chết ngày 4/6/1998, có vợ là bà Võ Thi Chân, chết ngày 2/11/1996, ông Trung, bà Chân có 5 người con trong đó có anh NĐ_Vương Phước Tề (là nguyên đơn) và ông Vương Phước Thuận (chết ngày 16/12/1986, có vợ là bà Nguyễn Thị Kề chết ngày 26/7/1992, ông Thuận, bà Kề có 12 người con trong đó có anh BĐ_Vương Hùng Quân là bị đơn); vợ thứ hai là cụ Hà Thị Hường (chết năm 1995), cụ Duyên vói cụ Hường không có con chung.