cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

34/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 574
  • 10

Tranh chấp thừa kế

31-03-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Về chia hiện vật, Tòa sơ thẩm xử đúng, tổng giá trị hiện vật ông NĐ_Bảo được nhận là: 3.545.715.000đ, tổng giá trị hiện vật ông BĐ_Tín được nhận là: 1.828.059.600đ, số liệu diện tích nhà đất và giá trị hiện vật này là chính xác. Cân đối giữa việc chia theo giá trị và chia theo hiện vật thì ông BĐ_Tín còn phải thanh toán cho ông NĐ_Bảo 299.745.648đ giá trị chênh lệch, ông NĐ_Bảo phải thanh toán cho vợ chồng ông BĐ_Tín, bà LQ_Diễm giá trị khu nhà trọ là 97.906.800đ, giá trị tường rào và trụ cổng là 20.000.000đ, tổng cộng là 117.906.800đ.


117/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1707
  • 46

Yêu cầu chia thừa kế

29-03-2011
TAND cấp tỉnh

Về hàng thừa kế được hưởng di sản của ông Mạnh: hàng thừa kế thứ 1 và hàng thừa kế thứ 2 đều đã chết, hàng thừa kế thứ 3 hiện còn sống gồm: bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan, ông NĐ_Tân kêu ông Mạnh bằng chú ruột hưởng thừa kế thế vị của ông Mai Văn Cường. Ông LQ_Nguyễn Văn Vinh kêu ông Mạnh bằng cậu ruột hưởng thừa kế thế vị của bà Mai Thị Năm. Bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan, ông NĐ_Tân được hưởng 1 kỷ phần, ông LQ_Vinh được hưởng 1 kỷ phần. Bà BĐ_Phương có công chăm sóc phụng dưỡng ông Mạnh từ năm 1996 đến năm 2007, được chia giá trị di sản của ông Mạnh là 1 phần, ngang bằng với kỷ phần ông NĐ_Tân, bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan và ông LQ_Vinh được hưởng là hợp lý.


73/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 5217
  • 141

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

28-03-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Quá trình sử dụng nhà ông BĐ_Đại đã tự ý xây dựng thêm nhiều căn nhà trên đất khuôn viên, tổ chức đá gà, cho thuê mặt bằng... Năm 2004, ông Đức - bà Mỹ khiếu nại tại Ủy ban nhân dân phường A, quận BT và đề nghị Sở quản lý nhà đất - công trình công cộng thành phốHCM hủy bỏ việc ủy quyền nhà cho ông BĐ_Đại. Do Nhà nước chưa có chủ trương giải quyết các tranh chấp giao dịch về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991 có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài, nên năm 2006 Tòa án nhân dân thành phố HCM trả lại đơn khởi kiện của ông Đức - bà Mỹ.


91/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 604
  • 10

Tranh chấp thừa kế

24-07-2013

Năm 1988 cụ Tu chết thì ông BĐ_Quý con trai trưởng của cụ Tu quản lý phần đất còn lại. Quá trình quản lý, ông BĐ_Quý đã nhiều lần bán đất cho ông LQ_Nguyễn Đức Quang, bà LQ_Hoàng Thị Toàn và ông LQ_Vũ Hữu Ngoạn (sau khi mua đất của ông BĐ_Quý, ông LQ_Quang đã san lấp và bán lại cho những người khác). Do cố Lựu chết không để lại di chúc nên cụ NĐ_Lưu yêu cầu chia thừa kế toàn bộ tài sản của cố Lựu (riêng phần đất cụ Tu đã bán không yêu cầu chia). Đối với những phần đất ông BĐ_Quý đã bán cụ NĐ_Lưu đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật


87/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 457
  • 13

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

11-07-2013

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án câp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét giám định dấu vân tay điểm chỉ của cụ Tứ trong “Văn tự bán hoa màu và nhượng đất” ngày 20/4/1981 có phải là dấu vân tay của cụ Tứ hay không là chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án. Nếu tàng thư căn cước của Công an không lưu dấu vân tay của cụ Tứ và đương sự không xuất trình được thì phải căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sơ và thu thập thêm các tài liệu khác để xem xét giải quyết. Bởi lẽ, các đương sự khai cụ Tứ bán đất họ không biết và không nhất trí. Hơn nữa Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng chưa xem xét năm 1981 thì ao Hợp tác xã có còn quản lý không? Năm nào Hợp tác xã mới trả ao và trả cho ai? để xem tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng đất ao.