62/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3292
- 163
Tại Biên bản giao dịch mua bán cổ phiếu ngày 30/7/2004 có nội dung ông NĐ_Tiền còn nợ BĐ_Công ty phần vốn góp là 149 triệu đồng. BĐ_Công ty có đơn phản tố yêu cầu ông NĐ_Tiền phải thanh toán phần yốn góp chưa nộp là 149 triệu đồng. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần làm rõ nếu giữa ông NĐ_Tiền và BĐ_Công ty thỏa thuận đồng ý cho ông NĐ_Tiền rút vốn (trả bằng tiền hoặc bằng nền đất), các bên không còn tiếp tục hợp tác kinh doanh và không còn tranh chấp gì khác thì đó là tranh chấp về dân sự; còn nếu trong trường hợp việc chuyển nhượng vốn giữa ông NĐ_Tiền với BĐ_Công ty chưa hoàn thành, các bên co tranh chấp về giá trị chuyển nhượng, tranh chấp về phần vốn góp thì phải xác định đây là tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.
61/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 425
- 12
Trước năm 2002, ông và vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Toàn định cư tại Hoa Kỳ. Do có nhu cầu trở về Việt Nam sinh sống và kinh doanh nên vào năm 2002 vợ chồng ông có gửi số tiến 44.400 USD về cho vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Tiến, ông LQ_Nguyễn Văn Ninh nhận chuyển đất và xây nhà ở, để sau này vợ chồng ông về định cư tại Việt Nam. Các lần gửi tiền đều có giấy nhận tiền. Thực tế, số tiền vợ chồng bà BĐ_Tiến, ông LQ_Ninh nhận được của vợ chồng ông đã nhận chuyển nhượng diện tích 178,2m2 đất, tại thửa số 1228 (nay là thửa số 4121), tờ bản đồ số 05, ấp TT, xã TA, huyện BM, tỉnh VL và xây dựng căn nhà diện tích 58,7m2. Ông yêu cầu được sở hữu toàn bộ nhà và đất nêu trên, ông đồng ý trả cho bà LQ_Nguyễn Thị Tiến một nửa của số tiền 44.400 USD và 18.675.000đ.
60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1087
- 27
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sinh, cụ Nguyễn Thị Hoa (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2 trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn Ên (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mã) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ Ên sửa chữa lại. Sau đó cụ Ên sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mã quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mã đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mã không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mã trả lại nhà, đất cho bà.
57/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 567
- 10
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung
Nếu có căn cứ xác định cụ NĐ_Thân, cụ NĐ_Mộng gửi tiền về để nhờ bà Hồng, ông Thế mua nhà đất thì cần định giá nhà đất trên cơ sở đó buộc các đồng thừa kế của bà Hồng, ông Thế trả lại số tiền hai cụ đã gửi về để mua nhà, phần chênh lệch (nếu có) thì chia theo công sức của các đương sự. Nếu có căn cứ xác định cụ NĐ_Thân, cụ NĐ_Mộng cho ông Thế, bà Hồng vay tiền để mua nhà thì chỉ buộc những đồng thừa kế của ông Thế, bà Hồng trả lại số tiền mà bà Hồng, ông Thế đã vay. Đối với phần tài sản của bà Hồng (chết năm 2007), ông Thế (chết năm 1999) thì cần xác định là di sản thừa kế của ông Thế, bà Hồng để chia thừa kế theo pháp luật nếu các đương sự có yêu cầu mới đúng.
56/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3093
- 96
Trong vụ án tranh chấp về chia tài sản thừa kế, ông NĐ_Giao Tùng Ngô là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Mỹ nhưng Tòa án chưa thu thập chứng cứ làm rõ ông NĐ_Giao Tùng Ngô có đủ điều kiện sở hữu nhà tại Việt Nam hay không mà đã công nhận cho ông Tú được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở Việt Nam là không đúng (Quy định tại Điều 22 Nghị quyết 1037/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia).