cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

29/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 4245
  • 169

Đòi bồi thường thiệt hại do hành vị cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp

09-09-2009

Tại đơn khởi kiện đề tháng 9/2004, được sửa đổi ngày 14/4/2005 và các lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng, đại diện NĐ_Công ty GERNAI trình bày: Nhãn hiệu thuốc tránh thai khẩn cấp POSTINOR của NĐ_Công ty GERNAI đã được đăng ký quốc tế từ năm 1978 theo Thỏa ước Madrid và sản phẩm đã được giới thiệu tại thị trường Việt Nam từ năm 1992; đến năm 1995 thì được Cục quản lý Dược Bộ Y tế cấp Giấy phép đăng ký số VN 0690-95. Đầu năm 2003, NĐ_Công ty GERNAI đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam và chính thức đăng ký nhãn hiệu thuốc POSTINOR, được Cục sở hữu công nghiệp Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam xác nhận tên thuốc POSTINOR đã đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và được gia hạn lại từ năm 1998. Từ đó, doanh thu của NĐ_Công ty GERNAI trên thị trường Việt Nam về loại sản phẩm này năm sau luôn cao hơn năm trước.


23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 376
  • 2

Yêu cầu chia thừa kế

04-09-2009

Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.


23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 407
  • 1

Tranh chấp thừa kế

04-09-2009

Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.


388/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1977
  • 35

Ly hôn

20-08-2009

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 31/10/2006 và các lời khai trong quá trình tố tụng, ông Charles Trần Hoàng khai như sau: Năm 2000 ông Hoàng từ Mỹ về Việt Nam có quen biết bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn, cuộc sống chung không hạnh phúc do nguyên nhân chênh lệch quá nhiều về tuổi tác, trình độ nhận thức, quan điểm, tính tình không hoà hợp; khi bà Tuyết mang thai đòi phá thai, ông Hoàng không muốn mà muốn bà Tuyết sinh con; bà Tuyết không muốn cùng ông xây dựng gia đình hạnh phúc, bà Tuyết lợi dụng việc đứng tên tài sản giúp ông nên bà Tuyết đã tự ý vay nợ làm tổn thất quá nhiều tài chính buộc ông phải gánh trả. Sự việc diễn ra ông lựa lời góp ý động viên nhưng bà Tuyết không sửa được. Năm 2004 vợ chồng tự sống ly thân. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên ông xin được ly hôn.


390/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1558
  • 36

Tranh chấp quyền sử dụng đất ở nhờ

20-08-2009

Năm 1987, ông có nhận chuyển nhượng 380m2 đất của ông Trần Minh Thanh. Khi chuyển nhượng, đã có gia đình bà BĐ_Huỳnh Thị Kha đang ở nhờ trên đất của ông Thanh, phần đất ở nhờ là phần nhà sàn trên mương, ông vần đồng ý cho gia đình bà BĐ_Kha tiếp tục ở nhờ, thỏa thuận hết 3 năm thì gia đình bà BĐ_Kha phải chuyển đi nơi khác. Khi ngôi nhà sàn bằng cây tạp của gia đình bà BĐ_Kha bị hư, bà BĐ_Kha đã năn nỉ ông cho cất lại nhà và tiếp tục ở nhờ, ông đã đồng ý cho cất lại nhà trên diện tích đất 38m2. Năm 2001, gia đình bà BĐ_Kha san lấp mương thoát nước nhưng ông không đồng ý. Ngày 30/3/2001, bà BĐ_Kha đã làm tờ cam kết với nội dung ở nhờ trên đất của ông và khi muốn che chắn theo hiện trạng cũ phải được sự đồng ý của ông. Năm 2003, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển nhượng của ông Thanh, tổng diện tích là 325,7m2 gồm 2 thửa 1794 và 297, phần đất gia đình bà BĐ_Kha ở nhờ thuộc thửa 297. Ngày 21/7/2005, gia đình bà BĐ_Kha lại tiếp tục san lấp mặt băng và nâng cấp nhà ở dù không có sự đồng ý của ông. Nay ông yêu cầu gia đình bà BĐ_Kha phải tháo dỡ, di dời nhà đi nơi khác và trả lại phần đất đang ở nhờ.