cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

21/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1404
  • 28

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

14-10-2014
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 17/10/2013 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà NĐ_Lý Hồng Chi trình bày: Ngày 05/3/2013 bà NĐ_Lý Hồng Chi có cho bà BĐ_Trần Kim Thịnh vay 50.000.000 đồng. Đến ngày 16/4/2013 bà NĐ_Chi cho bà BĐ_Thịnh vay tiếp 50.000.000 đồng. Tổng cộng 02 lần vay này bà BĐ_Thịnh có làm giấy xác nhận vay của bà NĐ_Chi 100.000.000 đồng vào ngày 16/4/2013. Ngày 16/5/2013, bà BĐ_Thịnh có trả cho bà 10.000.000 đồng tiền lãi của số tiền 100.000.000 đồng đã vay trước đó. Đến ngày 24/5/2013 bà BĐ_Thịnh vay tiếp của bà NĐ_Chi 50.000.000 đồng nữa. Ngày 24/6/2013 bà BĐ_Thịnh có trả cho bà NĐ_Chi 15.000.000 đồng tiền lãi của số tiền vay 150.000.000 đồng. Đến ngày 05/7/2013 bà BĐ_Thịnh vay tiếp của bà NĐ_Chi 40.000.000 đồng nữa, tổng cộng 04 lần bà BĐ_Thịnh đã vay của bà NĐ_Chi là 190.000.000đ (Một trăm chín mươi triệu đồng). Do bà BĐ_Trần Kim Thịnh hỏi vay đột xuất chưa đến ngày nhận tiền lãi nên tháng 7/2013 bà NĐ_Chi không tính tiền lãi bà BĐ_Thịnh.


26/2014/DS-ST: Đòi lại tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1649
  • 24

Đòi lại tài sản

19-06-2014
TAND cấp huyện

Ngày 18/02/2013, ông NĐ_Quyết (viết tắt là nguyên đơn) có ký hợp đồng góp vốn để mua 04 máy gia công dệt bao bì và mở rộng xưởng sản xuất với ông BĐ_Trần Văn Thức (viết tắt là bị đơn), theo thỏa thuận nguyên đơn góp vốn bằng việc đưa cho bị đơn số tiền 312.900.000 (ba trăm mười hai triệu chín trăm nghìn) đồng, nhưng sau 04 tháng góp vốn bị đơn và nguyên đơn bất đồng quan Điểm nên ngày 30/5/2013, bị đơn và nguyên đơn làm bản cam kết hoàn trả tiền góp vốn vào cơ sở sản xuất bao bì; theo đó nguyên đơn đề nghị rút số tiền góp vốn vào cơ sở dệt bao bì và bị đơn đồng ý để nguyên đơn rút vốn với nội dung các bên thỏa thuận: Thời hạn trả vốn được chia thành 03 lần kể từ ngày 30/5/2013 đến ngày 20/11/2014.


09/2014/DSST: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 728
  • 12

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

13-06-2014
TAND cấp huyện

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 23 tháng 12 năm 2013, các bản khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà NĐ_Lê Thị An trình bày: Vào năm 1994 bà có cò cho bà Phan Ngọc Dễ diện tích 3 công một góc ba đất tầm cấy (01 công tầm cấy 1296m2) với giá trị 1 cây vàng 24k, thời hạn 3 năm đến năm 1997 sẽ chuộc lại. Khi cố đất giữa hai bên có làm giấy tờ nhưng bà Dễ đang giữ. Đến năm 1997 bà Dễ có kêu bà chuộc đất nhưng do khi đó 2 đứa con bà bị bệnh chết và hoàn cảnh quá nghèo cho nên bà không có tiền đi chuộc lại đất thì bà Dễ đã cố phần đất trên lại cho ông BĐ_Lý Thanh Duy là 1 cây vàng 24k. Khi cố có mặt bà, bà Dễ, ông BĐ_Duy cùng thỏa thuận là đất của bà đã cố cho bà Dễ, nay bà Dễ đang cần tiền nhưng bà chưa có tiền chuôc lại nên cố lại cho ông BĐ_Duy cho đến khi nào bà có tiền chuộc lại thì ông BĐ_Duy phải cho bà chuộc.


20/2014/DS-ST: Tranh chấp thừa kế Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2083
  • 65

Tranh chấp thừa kế

22-05-2014
TAND cấp huyện

Ngày 09/4/2004 ông BĐ_Nguyễn Hồng Sang và bà BĐ_Lâm Hà đã được UBND quận TĐ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1380/2004 với diện tích 471,5 m2. Khi còn sống ông Năm và bà Sáo đã cho ông BĐ_Sang 200 m2 đất, ông BĐ_Sang cũng chỉ đăng ký sử dụng đất năm 1999 có 200 m2 nhưng sau khi ông Năm, bà Sáo chết không để lại di chúc, các anh em cũng không có thỏa thuận phân chia di sản thì ông BĐ_Nguyễn Hồng Sang, bà BĐ_Lâm Hà lại được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 471,5 m2 đất là không đúng.


03/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 350
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

20-01-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà NĐ_Võ Thị Lan Hồng và lời trình bày của đại diện nguyên đơn bà Lê Thị Sen: Từ tháng 4/2009, bà BĐ_Dương Thị Nhi liên tục vay tiền của bà NĐ_Hồng, đến đầu năm 2012 do tình hình kinh tế khó khăn nên bà NĐ_Hồng yêu cầu bà BĐ_Nhi trả hết số tiền đã vay, lúc đó bà BĐ_Nhi hẹn bà cho thêm thời gian nữa để trả và viết giấy vay nợ ngày 12/9/2012 với số tiền 1.200.000.000 đồng, hẹn sẽ trả trong thời gian 03 tháng.