132/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1471
- 22
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Căn nhà 129 TTV, phường 11, quận Y trên 158m2 đất do ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan mua của cụ LQ_Châu Kỉnh Sang với giá 50 lượng vàng theo hợp đồng mua bán ngày 4/12/2001. Trước khi bán căn nhà trên, cụ LQ_Sang có báo cho ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan biết rõ tình trạng nhà có 03 hộ gồm: cụ BĐ_Trương Mai, ông BĐ_Ô Bỉnh Thứ và bà Ô Huê Hưng đang ở nhờ tại nhà. Do đó, khi mua nhà, ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan phải thương lượng với họ hoặc nhờ Tòa án giải quyết thì mới được nhận nhà. Ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan đồng ý mua và có đến nhà 129 TTV gặp cụ BĐ_Mai, bà Hưng thông báo về việc ông, bà có ý định mua căn nhà này; cụ BĐ_Mai và bà Hưng không có ý kiến gì. Sau đó, ông NĐ_Cần, bà NĐ_Loan tiến hành hợp đồng mua bán nhà với cụ LQ_Sang.
600/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2052
- 55
Theo Đơn khởi kiện ngày 11/10/2011, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/7/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - chị NĐ_Nguyễn Thị Ý trình bày: Chị nhận thừa kế và đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC955293 vói diện tích 4.551,2m2 thuộc thửa số 50 và số AC95294 với diện tích 46m2 thuộc thửa 51 tờ bản đồ số 3, bản đồ địa chính xã PT do ủy ban nhân dân thị xã BT (nay là thành phố BT) cấp ngày 23/6/2005. Phần đất này có nguồn gốc là của cụ Lê Văn Lợi và cụ Nguyễn Thị Chiêm; cụ Lợi và cụ Chiêm cho con là ông Lê Văn Lộ phần đất này, đến năm 1978 thì ông Lộ chết, vợ ông Lộ là bà Trần Thị Đào tiếp tục quản lý, sử dụng. Bà Đào được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994. Chị được bà Đào nhận về làm con nuôi từ năm 1979. Năm 2005 bà Đào chết, có để lại di chúc cho chị được trọn quyền thừa hưởng và sử dụng phần đất này. Trước đó, khi ông Lộ còn sống có cho em ruột là ông Lê Văn Sóc xây nhà trên phần đất này. Sau khi ông Sóc chết thì con ông Sóc là ông BĐ_Lê Văn Thành Sỹ tiếp tục ở. Sau khi bà Đào chết, chị vẫn cho ông BĐ_Sỹ tiếp tục ở mà không có ý kiến gì.
151/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1726
- 31
Tại đơn khởi kiện ngày 17/8/2009 và quá trình tổ tụng nguyên đơn là chị NĐ_Lai Thị Thanh Trinh trình bày: Cụ Lai Văn Vĩ (chết 1983) và cụ Nguyễn Thị Thuận (chết ngày 20/01/2009) sinh đưoc 04 người con gồm các ông, bà: LQ_Lai Văn Phúc, Lai Hoàng Loan (chết năm 2004 có vợ là bà Q_Nguyễn Thérèse Thanh Ngọc và 06 ngưới con: LQ_Lai Thị Thanh Thư, NĐ_Lai Thị Thanh Trinh, LQ_Lai Hoàng Thanh Tú, LQ_Lai Thị Thanh Tiền, LQ_Lai Hoàng Thanh Tâm, LQ_Lai Hoàng Thanh Thời), Lai Khánh Tấn (chết năm 1997 có vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Thanh Hồng và có 04 người con: LQ_Lai Hồng Hoà, LQ_Lại Tấn Trực, LQ_Lai Ngọc Hoà, LQ_Lai Thành Trực) và bà BĐ_Lai Thị Ánh Ngọc.
149/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 605
- 48
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2008 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là cụ NĐ_Mai Thị Diệu trình bày: Ngày 11/12/1974, cụ Bùi Mã Nhi (chồng của cụ NĐ_Diệu, chết năm 1975, không để lại di chúc) nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Quang Trung 1,7ha đất tại ấp Nghĩa Thành, GN (nay là tổ dân phố 2, phường NT, thị xã GN, tỉnh ĐN). Sau khi nhận chuyển nhượng đất vợ chồng cụ sử dụng đất để canh tác trồng cà phê, mít, điều. Quá trình sử dụng đất, cụ chia một phần đất cho những người con gái của cụ; phần đất còn lại (không rõ diện tích cụ thể do không đo đạc) năm 1992 cụ giao cho vợ chồng ông BĐ_Phúc mượn để canh tác và năm 2002 ông BĐ_Phúc xây nhà trên đất để thờ phụng tổ tiên.
148/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1099
- 52
Năm 1998, ông BĐ_Sang làm ăn thất bại, ly hôn vợ, không còn nhà ở, nên bà đồng ý cho ông BĐ_Sang và con ông BĐ_Sang về ở cùng. Sau đó, bà và ông BĐ_Sang mâu thuẫn, bà đã phải đi ở nơi khác. Bà yêu cầu chia thừa kế phần di sản của cụ Sến theo pháp luật và phần di sản của cụ Chín theo di chúc, xin được quản lý toàn bộ tài sản, hoàn lại giá trị cho các đồng thừa kế khác phần họ được hưởng của cụ Sến. Về tiền công sức nuôi dưỡng và tiền mai táng cho cha mẹ, bà không yêu cầu giải quyết. Bà công nhận căn nhà này, ông BĐ_Sang và ông LQ_Tú có sửa chữa một phần. Tại phiên tòa phúc thẩm bà đồng ý hoàn lại cho ông BĐ_Sang, ông LQ_Tú tiền chi phí sửa chữa nhà.