229/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 380
- 6
Theo đơn khởi kiện và những lời trình bày, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh và ông NĐ_Nguyễn Đình Linh trình bày: Năm 1983, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Đình Linh, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh thuê một căn nhà diện tích 36m2 của Nhà nước tại 138 TV (nay là số 01 TV). Khi đó, xung quanh nhà là đất trống nên hai vợ chồng ông bà đã khai phá thêm đất xung quanh, tổng diện tích đất mà ông bà sử dụng là 499m2. Khoảng từ năm 1985, ông NĐ_Nguyễn Đình Linh, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh xây dựng một căn nhà cạnh ngôi nhà thuê của Nhà nước. Năm 1987, ông NĐ_Nguyễn Đình Linh, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh xây tiếp một phòng rộng khoảng 30m2 trên phần đất khai phá, giáp với đất hàng xóm. Việc xây dựng có làm đơn xin phép.
228/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2020
- 37
Cha mẹ của bà là cụ Nguyễn Văn Thái (chết năm 1988) và cụ Dương Lan (chết năm 2002) sinh được ba người con chung gồm NĐ_Nguyễn Thị Vũ, LQ_Nguyễn Thị Bình và BĐ_Nguyễn Ngọc Đương. Sinh thời, cha mẹ bà khai khẩn và sử dụng 02 phần đất gồm: 04 công đất ở khu vực 6 phường HT và 16 công đất cùng 01 căn nhà gỗ mái tole có diện tích 145m2 tọa lạc tại số 44/4 khu vực Thạnh Mỹ, phường LB, quận CR, thành phố CT. Năm 1974, cụ Thái và cụ Lan đã chia đất cho các con như sau: bà NĐ_Vũ được 04 công đất tọa lạc tại HT - CR; bà LQ_Bình được 04 công tại Thạnh Mỹ - CR (nhưng sau đó cụ Lan lấy tại 01 công cho người cháu là Nguyễn Thị Út) và bà BĐ_Đương được 04 công đất tại Thạnh Mỹ - CR (nhưng sau đó cụ Lan lấy lại 01 công cho người cháu là Nguyền Thị Út).
227/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 391
- 5
Nguyên đơn ông NĐ_Cao Văn Khoa, bà NĐ_Lâm Thị Ngân trình bày: Năm 1966, ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Bỉnh Họt 02 miếng đất, ông Họt còn lại 01 miếng đất cặp ranh phần đất đã chuyển nhượng, ranh đất giữa ông bà và ông Họt là một cái đường mương, phần lòng mương khoảng 04m, bờ khoảng 02m là của ông bà nhưng ông bà và ông Họt sử dụng chung. Ông bà và ông Họt có giao kết nếu ông Họt chuyển nhượng đất cho người khác thì phải trả lại cho ông bà diện tích đất đường mương và bờ. Năm 1969, do chiến tranh nên gia đình ông bà và ông Họt đều bỏ đi, đến năm 1975 ông bà trở về canh tác trên mảnh đất đã nhận chuyển nhượng của ông Họt, còn phần đất của ông Họt thì ông BĐ_Ong Phát Quân sử dụng. Thời gian này ông bà và ông BĐ_Quân đều không đề cập đến ranh đất. Đến năm 1978, ông bà và ông BĐ_Quân mỗi người sử dụng một mương bến khác nhau nên không còn sử dụng chung cho đến hôm nay.
226/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 235
- 6
Vào năm 1998, ông NĐ_Thịnh, bà NĐ_Linh được cha mẹ là cụ BĐ_Nguyễn Văn Đan, cụ Dương Thị Đức cho 04 công đất tọa lạc tại ấp Tân Thành A, xã Tạ An Khương Nam, huyện Dầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Năm 2000 cụ Dương Thị Đức chết, đến năm 2001 cụ BĐ_Nguyễn Văn Đan họp các con thống nhất cắt phần diện tích đất trên cho ông NĐ_Thịnh (ông BĐ_Đan có làm di chúc và được chính quyền địa phương xác nhận) nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Năm 2002 ông NĐ_Thịnh cố phần đất trên cho vợ chồng ông LQ_Ngoan, bà LQ_Ken với giá 40 chỉ vàng 24k, thời hạn 04 năm. Đến khi hết hạn cố đất, ông NĐ_Thịnh chưa có điều kiện chuộc lại đất nên ông LQ_Ngoan, bà LQ_Ken tiếp tục quản lý, sử dụng đất.
225/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 306
- 5
Nguyên đơn ông NĐ_Phan Văn Sang trình bày: phần đất tranh chấp có diện tích 8.300m2 hiện nay do vợ chồng ông BĐ_Phạm Nghị Quân và bà LQ_Trương Mỹ Linh quản lý canh tác có nguồn gốc của ông Phan Văn Lắm (ông nội ông NĐ_Sang) để lại cho ông Phan Văn Út (cha ông NĐ_Sang). Ông Út canh tác đến năm 1986 để lại cho ông NĐ_Sang canh tác. Ông NĐ_Sang canh tác đến năm 1990 thì vợ chồng ông NĐ_Sang bỏ xuống huyện Ngọc Hiển làm ăn và có nhờ cháu là ông Phan Chí Thành đến trong coi nhà cửa và quản lý canh tác đất. Trước đó ông NĐ_Sang có thiếu nợ của vợ chồng ông BĐ_Quân 04 chỉ vàng 24K và số tiền 9.850.000 đồng. Khi ông NĐ_Sang đi được vài tháng thì vợ chồng ông BĐ_Quân có đến hỏi bà Phan Thị Hạnh (chị hai của ông NĐ_Sang) mượn phần đất của ông NĐ_Sang để cất nhà ở, bà Hạnh có hỏi ý kiến của ông NĐ_Sang và ông NĐ_Sang đồng ý.