cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1876/2016/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động

  • 725
  • 27

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

14-09-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Ngọc Nhung trình bày: Ông và BĐ_Công ty Cổ phần Ân Lan (tên cũ Công ty Cổ phần Tân Thành Đô City Ford) có ký 02 Hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm, hợp đồng thứ nhất từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2010 và hợp đồng thứ hai từ ngày 01/7/2010 đến ngày 01/7/2011, với chức danh Trưởng Phòng hành chính nhân sự. Mức lương theo thỏa thuận là 8.100.000đ/tháng, mức lương trong hợp đồng lao động là 4.740.000đ/tháng. Khi kết thúc thời hạn của hợp đồng lao động lần hai, ông NĐ_Nhung vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty nên hợp đồng lao động giữa ông và BĐ_Công ty Cổ phần Ân Lan được chuyển sang loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn, vẫn với chức danh và mức lương như trên.


1758/2016/DS-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động

  • 1162
  • 24

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

31-08-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 06/8/2014, các bản tự khai ngày 01/10/2014, ngày 22/10/2014, Biên bản hòa giải các ngày 13/5/2015, 27/11/2015 và Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 04/8/2016, ông NĐ_Võ Thành Trinh là nguyên đơn và bà Trần Thị Kiều My là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Tháng 5 năm 2011, ông NĐ_Võ Thành Trinh được nhận vào làm việc tại BĐ_Công Ty TNHH MTV TMSX Minh Anh (Công ty). Ông NĐ_Võ Thành Trinh làm công việc thủ kho tại phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, không ký hợp đồng lao động, hàng tháng tiền lương ký vào sổ lương của Công ty . Mức lương thử việc là 5.800.000 đồng/tháng; phương thức trả lương bằng tiền mặt. Thời gian thử việc 3 tháng. Đầu năm 2012, ông NĐ_Trinh được tăng lương 6.000.000 đồng /tháng. Từ tháng 01/2014 đến thời điểm nghỉ việc là 6.400.000 đồng /tháng.


22/2016/ST-LĐ: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động

  • 2165
  • 80

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

18-02-2016
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 01/7/2015, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn ông NĐ_Trần Đắc Tú trình bày: Tháng 11/2010, ông NĐ_Tú được nhận vào làm việc tại BĐ_Trung tâm dạy nghề quận TP (sau đây gọi tắt là Trung tâm). Ông NĐ_Tú và Trung tâm đã ký với nhau liên tiếp 04 hợp đồng lao động xác định thời hạn là 12 tháng từ ngày 01/11/2010 đến ngày 31/12/2014 với công việc là nhân viên bảo vệ. Hợp đồng lao động thứ nhất với mức lương của ông NĐ_Tú là 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng/tháng, ba hợp đồng lao động tiếp theo với mức lương là 1.800.000 (một triệu tám trăm nghìn) đồng/tháng.


2122/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2004
  • 41

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

04-10-2016
TAND cấp huyện

Ngày 29/12/2010, NĐ_Công ty phát triển nhà Thánh An (nay là NĐ_Công ty TNHH một thành viên Địa ốc Thánh An) có ký với bà BĐ_Nguyễn Thị Hoa Hợp đồng cho thuê nhà số 214/HĐTN-PTN để cho bà Hạnh thuê căn hộ 104, tầng 2 (lầu 1) Khu tạm cư NTL, phường 13, quận BT, với giá thuê là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng/tháng, ngày nhận bàn giao nhà là ngày 31/12/2010, thời hạn hợp đồng từ ngày 31/12/2010 đến ngày 30/6/2011. Khi đôi bên ký hợp đồng thuê nhà thì bà Hạnh có đặt cọc cho Công ty số tiền là 2.354.000 (hai triệu ba trăm năm mươi bốn ngàn) đồng tương đương với 02 (hai) tháng tiền thuê nhà. Sau đó bà Hạnh đã thanh toán cho Công ty được 01 tháng tiền thuê nhà từ ngày 30/12/2010 đến 30/01/2011 là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Từ ngày 01/02/2011, bà Hạnh đã ngưng không thanh toán tiền thuê nhà cho Công ty cho đến nay.


2056/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 606
  • 24

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-09-2016
TAND cấp huyện

Năm 2010 ông NĐ_Nguyễn Văn Tân và bà Đặng Thị Oanh cho vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Thành Vân và bà BĐ_Nguyễn Thị Thanh vay tổng cộng 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng (ngày 08/5/2010 vay 300.000.000 đồng, ngày 20/9/2010 vay 50.000.000 đồng), lãi suất thỏa thuận 18%/năm, không ghi thời hạn vay, khi nào cần lấy lại tiền thì ông NĐ_Tân, bà Oanh báo cho ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trước 15 ngày. Đến ngày 22/11/2011, bà Đặng Thị Oanh qua đời và do cần tiền để trị bệnh nên ông BĐ_Vân yêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trả lại số tiền 350.000.000 đồng nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh không đồng ý. Vì thế vào tháng 7/2012 ông làm đơn gửi Ủy ban nhân dân phường 3 quận BT giải quyết nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh vẫn không có thiện chí trả nợ. Nay ông BĐ_Vânêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh phải trả cho ông số tiền đã vay là 350.000.000 đồng và tiền lãi của số tiền này là 43.200.000 đồng, tổng cộng 393.200.000 đồng.