427/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 528
- 9
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Do có nhu càu mua đất kinh doanh, thông qua người môi giới nên anh biết vợ chồng anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh ở khu 8 xã HC, VT có nhu cầu bán đất và tài sản gắn liền với đất. Sau khi gặp gỡ vợ chồng anh BĐ_Ninh và thỏa thuận việc mua bán, ngày 21/8/2009 tại phòng công chứng số 1 thành phố VT tỉnh PT, anh NĐ_Khang và vợ chồng anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh ký 3 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 706,707,708 với sự làm chứng của công tố viên Nguyễn Xuân Quý. Ngay sau khi ký kết hợp đồng, anh NĐ_Khang đã thanh toán 2.300.000.000đ cho anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh. Sau khi ký kết hợp đồng, anh NĐ_Khang thấy tài sản như trong hợp đồng số 706 không đúng như thực tế, nên đã cùng vợ chồng anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh hủy bỏ hợp đồng 706 và đã lấy lại số tiền 1.000.000.000 đ. Như vây chỉ còn 2 hợp đồng 707 và 708.
423/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 360
- 8
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Ngọc Dương trình bày: Ông khởi kiện yêu cầu ông Trịnh Văn Mười phải để ông sử dụng lối đi qua đất của ông Mười để ra đường công cộng. Theo ông NĐ_Dương, mẹ ruột ông là bà Trịnh Thị Ghê có cho ông sử dụng đất tại thửa 1740, tờ bản đồ số 1, diện tích 1.848m2, xác định tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00776/QSDĐ/Q12/1998 do Ủy ban nhân dân quận 12 cấp ngày 14/12/1998 cho bà Ghê. Bà Ghê đã ký hợp đồng tặng cho phần đất này cho ông NĐ_Dương tại Phòng công chứng số 5 thành phố Hồ Chí Minh. Để ra đường công cộng, từ trước năm 1975, bà Ghê đã sử dụng con đường mòn băng qua đất của ông Mười. Vì vậy, nay ông yêu cầu ông Mười phải để cho ông sử dụng lối đi qua đất của ông Mười để đi ra đường công cộng. Phần đất ông yêu cầu sử dụng làm lối đi thể hiện tại vị trí 6 (một phần) tương ứng với diện tích tại 1858, tờ 1 là 50,5m2, của bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và môi trường thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12).
419/2014/DS-GĐT: Đòi lại quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 704
- 7
Năm 1993, bà đăng ký Ủy ban nhân dân (UBND) xã HS, huyện Tam Đảo (nay là huyện BX), tỉnh VP xin cấp 04 xuất đất (300m2/xuất). Do mỗi người chỉ được đăng ký một xuất, nên bà nhờ cụ Hoàng Văn Thảo (là bố của bà), bà BĐ_Nguyễn Thị Hương và bà Nguyễn Thị Hạnh mỗi người đứng tên đăng ký hộ 01 xuất và bà cũng đứng tên đăng ký 01 xuất, bà trực tiếp nộp tiền 04 xuất đất, mỗi xuất 480.000đ cho ông Nguyễn Tiến Hồng (là cán bộ địa chính xã HS); ông Hồng có viết phiếu tạm thu đứng tên 4 người, sau đó bà được nhận 4 xuất đất, trong đó đất bà đứng tên là ô số 01, cụ Thảo ô số 02, bà BĐ_Hương ô số 03, bà Hạnh ô số 04.
418/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1009
- 15
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tháng 10/2010, ông BĐ_Lê Linh bán cho bà một lô đất có chiều ngang 9m; dài hết thửa đất với giá 225.000.000 đồng. Bà đã đặt cọc trước cho ông BĐ_Lê Linh số tiền 55.000.000 đồng, cụ thể: ngày 07/10/2010 giao 10.000.000 đồng; ngày 17/10/2010 giao 20.000.000 đồng; ngày 06/11/2010 giao 25.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền cọc sẽ tiến hành làm giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nhưng sau đó, không biết vì lý do gì ông BĐ_Linh nói là không bán cho bà được. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Linh phải trả tiền cọc cho bà là 55.000.000 đồng và một khoản tiền tương ứng giá trị tài sản đặt cọc. Tổng cộng là 110.000.000 đồng.
416/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 883
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Vào năm 2000, sau khi về hưu, vợ chồng ông thường xuyên về Việt Nam thăm bà con và cũng để tìm cơ hội làm ăn, thường gặp bị đơn là bà BĐ_Ký Kim Nên là con ruột của người anh vợ ông gọi vợ chồng ông bằng Cô dượng, vợ chồng ông rất tin tưởng bà BĐ_Nên. Lúc này bà BĐ_Nên đang làm nghề thu mua phế liệu và đang định cư tại Campuchia chưa có hộ khẩu tại Việt Nam và bà BĐ_Nên có hỏi mượn tiền của vợ chồng ông. Do là chỗ bà con nên vợ chồng ông đồng ý cho mượn. Thời gian này bà BĐ_Nên vẫn chưa có hộ khẩu tại Việt Nam vì vậy ông phải nhờ tài khoản của người bạn là Hứa Phát Tài (tên khác là Sái) để ông chuyển tiền về. Sau đó nhờ ông Tài giao lại cho bà BĐ_Nên đã nhận cụ thể: chuyển qua ngân hàng Banco Popular Frace ở Pháp cho ông Tài ngày 09/9/2002 là 4.352 Euro, ngày 15/9/2002 là 6.300 Euro, ngày 17/5/2003 là 1.300 Euro, tổng cộng số tiền là 182.280.000đ.