83/2014/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 806
- 21
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Ngày 18/01/2013 công ty có yêu cầu bà ký tiếp hợp đồng lao động không xác định thời hạn nhưng do điều kiện sức khỏe không đảm bảo nên bà có làm đơn xin nghỉ việc. Trong đơn nghỉ việc bà có ghi thời gian nghỉ việc là tới ngày 01/4/2013 và được sự đồng ý của Giám đốc xác nhận ký vào đơn xin nghỉ việc. Nhưng đến ngày 15/3/2013 Giám đốc BĐ_Công ty TNHH hóa chất Thành Phúc có gọi bà lên và báo rằng bà sẽ nghỉ việc từ ngày 16/3/2013 mà không có lý do của việc cho nghỉ việc, còn tiền lương thì đến ngày 08/4/2013 mới được lãnh. Ngày 08/4/2013, bà đến công ty nhận lương thì công ty chỉ trả cho bà 11 ngày lương tương đương với 1.173.000 đồng. Việc công ty trả lương ngày cho bà là không đúng vì lương của bà nhận hàng tháng trước đó là 3.200.000 đồng/tháng. Như vậy việc công ty cho bà thôi việc là trái với quy định, không có lý do cho nghỉ việc, không trả trợ cấp thôi việc, không trả đủ tiền lương tháng 03/2013 cho bà.
1299/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2787
- 94
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn bà NĐ_Phan Thị Đan trình bày: Ngày 18/6/2012, bà cùng ông LQ_Phạm Thanh Hoa lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 919,9m2 thửa 191, tờ bản đồ số 35, bộ địa chính xã Hòa Phú, huyện Củ Chi của vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Văn Thịnh và BĐ_Hà Thị Minh với số tiền 600.000.000 đồng. Bà và ông Hà đã thanh toán đủ tiền cho ông Thái và bà BĐ_Minh. Tại thời điểm chuyển nhượng bà và ông Hà thấy trên đất có căn nhà cũ không ai sử dụng. Sau khi chuyển nhượng và làm thủ tục sang tên, bà và ông Hà được Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/9/2012.
1159/2015/DS-PT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2082
- 48
Nguyên đơn trình bày: Năm 1992, ông LQ_Dư Hớn Quân và LQ_Nguyễn Văn Đà có góp vốn với ông Phạm Minh Thường để mua chung thửa đất ngang 30m, dài 97m tọa lạc thửa số 424 tờ bản đồ số 3 xã TTT, huyện Nhà Bè (nay là phường BT, Quận A) của bà Nguyễn Thị Ngói và ông Phan Văn Sanh. Ông Thường, ông LQ_Quân và ông LQ_Đà thống nhất để ông Thường đang ở tại Nhà Bè đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cả ba cùng thỏa thuận, ông Thường được sử dụng phần đất có diện tích ngang 20m x dài 97m, còn ông LQ_Đà và ông LQ_Quân mỗi người được sử dụng phần đất ngang 5m x dài 97m. Năm 1994, phần đất trên được UBND huyện Nhà Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2.913m2, tại vị trí thửa 434, tờ bản đồ số 3 xã TTT, huyện Nhà Bè cho ông Phạm Minh Thường theo thỏa thuận của cả ba.
1119/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2448
- 70
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Trần Văn Linh có đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 01/01/2015 ông NĐ_Trần Văn Linhvà ông BĐ_Đặng Đức Tú có ký giấy đặt cọc để sang nhượng đất và nhà tại 33 Phạm Đăng Giảng, khu phố 1, phường BHH, quận BT, Thành phố HCM với diện tích 04x24=96m2, giá chuyển nhượng là 2.470.000.000 đồng. Khi ký giấy đặt cọc, ông NĐ_Linh có đưa cho ông BĐ_Tú 100.000.000 đồng và hẹn ngày 01/02/2015 ra công chứng để làm thủ tục mua bán. Sau đó, ông BĐ_Tú đưa cho ông NĐ_Linh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại 33 Phạm Đăng Giảng, khu phố 1, phường BHH, quận BT, Thành phố HCM, số BV112113 do UBND quận BT cấp ngày 10/6/2014 mang tên sở hữu là bà LQ_Đặng Thị Uyên Chi, có diện tích là 85,6m2. Như vậy, về chủ thể ký hợp đồng đặt cọc là sai, hơn nữa diện tích khi ký đặt cọc so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không đúng, do đó, ông NĐ_Linh có yêu cầu ông BĐ_Tú trả lại tiền cọc nhưng ông BĐ_Tú không trả. Nay ông NĐ_Linh khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Tú trả lại 100.000.000 đồng một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
1026/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 961
- 14
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Lê Hoàng Tú trình bày: Ngày 27/01/2008, Ông NĐ_Lê Hoàng Tú và bà BĐ_Trương Thị Sinh có ký Hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo đó ông NĐ_Tú có nhận chuyển nhượng của bà BĐ_Trương Thị Sinh phần đất có diện tích 126,4m2 thuộc một phần thửa đất số 71, tờ bản đồ số 02, bộ địa chính xã XTT, với giá 279.000.000 (Hai trăm bảy mươi chín triệu) đồng. Phần diện tích này bà BĐ_Trương Thị Sinh đã được Ủy ban nhân dân huyện HM cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số V 197179 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Số 00114 QSDĐ ngày 28/10/2002, Ông NĐ_Tú đã đặt cọc cho bà BĐ_Sinh số tiền 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng. Hai bên thỏa thuận sau khi bà BĐ_Sinh hoàn thành thủ tục tách thửa thì sang tên cho ông NĐ_Tú và ông NĐ_Tú giao đủ số tiền còn lại.