33/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3575
- 115
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Thy và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà LQ_Đỗ Thị Thanh Thùy trình bày: Tại đơn khởi kiện ngày 20/3/2013, bản tự khai và biên bản hòa giải thì ngày 13/2/2012 ông NĐ_Thy bà LQ_Thùy có mua một thửa đất có diện tích 258,6 m2 thuộc tờ số 2, Xã TML, Huyện Thủ Đức (Tài liệu chỉnh lý ảnh năm 1990, theo công văn số 7541/TNMT-QLBĐ ngày 13 tháng 9 năm 2007 của Sở tài nguyên môi trường Thành phổ Hồ Chí Minh) với số tiền là 300.000.000 (Ba trăm triệu) đồng của bà BĐ_Nguyễn Thị Thủy. Vì chủ thửa đất trên lả của ông LQ_Nguyễn Văn Tín và bà LQ_Trần Thị Khó nên ngày 06/1/2019 và ngày n13/03/2102 Ông NĐ_Thy có ra phòng công chứng để làm thử tục ủy quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm nhận tiền đền bù và các khoản bồi thường đối với thửa đất nói trên, tuy nhiên khi ra ban đền bù giải tỏa thì Công ty phát triển nhà Quận X nói rằng thủa đất này bị chồng thửa, Ông NĐ_Thy có ra ủy ban nhân dân phường TML, Quận X khởi kiện yêu cầu để giải quyết nhưng không thành và ủy ban nhân dân phường TML hướng dẫn ông NĐ_Thy nộp đơn khỏi kiện tại Tòa án nhân dân Quận X để yêu cầu giải quyết.
117/2014/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 362
- 5
Theo tài liệu có tại hồ sơ, nguyên đơn bà NĐ_Đỗ Thị Kim Dương trình bày: bà có cho ông BĐ_Nguyễn Tiến Sung vay số tiền tổng cộng tính đến ngày 15/12/2012 là 24.200.000 đồng, giữa hai bên có viết giấy vay tiền và ông BĐ_Sung cam kết sẽ trả cho bà số nợ trên và kèm theo số lãi là 10% trong thời hạn 3 tháng tính từ ngày 15/12/2012, nhưng đến nay ông BĐ_Sung vẫn không thực hiện theo cam kết. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Nguyễn Tiến Sung phải hoàn trả cho bà khoản nợ gốc là 24.200.000 đ và nợ lãi tính từ ngày 15/03/2013 đến nay theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố. Ông BĐ_Nguyễn Tiến Sung vắng mặt trong tất cả các buổi Tòa triệu tập, do đó Tòa án không lấy lời khai của ông BĐ_Sung được
191/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 277
- 7
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 22/11/2011, tại bản tự khai ngày 09/01/2012, tại biên bản hòa giải ngày 02/05/2012, biên bản hòa giải ngày 15/08/2013 và tại biên bản hòa giải ngày 02/12/2013 phía nguyên đơn trình bày: Ngày 19/11/2010 ông NĐ_Tính có cho vợ chồng ông BĐ_Linh bà BĐ_Hân vay số tiền 1.200.000.000 đồng, lãi suất 1,5%/tháng, thời hạn vay là 12 tháng, hai bên có ký hợp đồng vay và thế chấp nhà tại phòng công chứng số 4. Để bảo đảm nghĩa vụ bên vay có thế chấp căn nhà số 93/44 (số cũ 93/42) đường LBB, phường TTH, quận TP (giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6433/2008/UB-GCN ngày 17/09/2008). Mặt khác, cùng ngày 19/11/2010 ông BĐ_Linh, bà BĐ_Hân lại ký thêm hợp đồng vay tiền không biện pháp bảo đảm để vay 2.762.000.000 đồng, lãi suất là 1,5%/tháng, thời hạn vay là 12 tháng, số tiền 2.762.000.000 đồng ông NĐ_Tính giao cho ông BĐ_Linh, bà BĐ_Hân sau khi ký hợp đồng công chứng một ngày, tức là ngày 20/11/2010. Tổng cộng 02 lần vay là 3.962.000.000 đồng. Ngày 22/10/2011 ông BĐ_Linh bà BĐ_Hân có trả cho ông NĐ_Tính số tiền 700.000.000 đồng. Số tiền nợ gốc của hợp đồng trên còn lại là 2.062.000.000 đồng. Đến ngày 19/11/2011 hết hạn hợp đồng nhưng ông BĐ_Linh, bà BĐ_Hân không thanh toán cả vốn và lãi nên ông NĐ_Tính khởi kiện.
18/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3787
- 158
Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
Do quen biết nên khoảng năm 2007 khi biết vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa có ý định bán hai căn nhà, nhưng cả hai căn nhà đều đang bị thế chấp tại Ngân hàng, nghĩ là mua được giá rẻ nên ông NĐ_Tính hỏi mua và được vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa hứa bán sau khi giải chấp. Vì vậy, khi bà BĐ_Xu cần tiền nói với ông đưa tiền trước để đặt cọc, nhưng do ông NĐ_Tính không đủ tiền đưa một lần, nên lúc bà BĐ_Xu cần tiền ông NĐ_Tính gọi điện về nhà cho em họ là bà LQ_Trần Thị Thu Thủy lấy tiền giao cho bà BĐ_Xu. Khi ở nhà không có tiền thì ông NĐ_Tính hỏi mượn của bạn bè là bà LQ_Nguyễn Thị Lan Cương và bà LQ_Nguyễn Thị Hà để giao cho bà BĐ_Xu. Tông cộng đã giao cho bà BĐ_Xu 1.800.000.000 đồng. Khi giao tiền cho bà BĐ_Xu, bà BĐ_Xu đều viết giấy biên nhận, nhưng lại ghi nhận của những người trực tiếp giao tiền là bà LQ_Thủy, bà LQ_Lan Cương, vì vậy có giấy nợ phần ghi trả tiền cho ai thì chừa trống chưa ghi tên người nhận.
626/2016/DS-PT: Vụ án Hoa hậu Diệu Hân kiện ‘người đánh ghen’ ra tòa và đòi bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm hại Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3623
- 181
Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, bà NĐ_Hân đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình được thỏa thuận trong hợp đồng, không vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào. Tuy nhiên, từ thời điểm giao nhà cho đến nay, bà BĐ_Trang đã cố ý vi phạm các nghĩa vụ của bên cho thuê nhiều lần, qua việc bà BĐ_Trang thường xuyên xúc phạm đến danh dự nhân phẩm để vu khống bà NĐ_Hân, gây rối và cố ý phá hoại tài sản của bên thuê được đặt trong diện tích thuê, mục đích cản trở hoạt động kinh doanh của bên thuê làm ảnh hưởng và thiệt hại rất nghiêm trọng và không thể tiếp tục kinh doanh bình thường được