104/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 526
- 3
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Đơn khởi kiện ngày 21/8/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Ngọc Thu và bà NĐ_Lê Thị Lý trình bày: Năm 1998, vợ chồng ông BĐ_Bảo, bà BĐ_Na chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý 500m2 đất tại thôn 1, xã CE, thành phố BMT với giá là 5.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng có xác nhận của UBND xã, các bên đã giao đủ tiền và nhận đất.Vợ chồng ông NĐ_Thu đã nhiều lần yêu cầu làm thủ tục sang tên, nhưng vợ chồng ông BĐ_Bảo không thực hiện. Do đó, ông NĐ_Thu và bà NĐ_Lý khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Bảo và bà BĐ_Na phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong đó có 100m2 đất thổ cư và 400m2 đất nông nghiệp và chịu mọi chi phí phát sinh khi làm thủ tục sang tên cho ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý.
94/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 309
- 5
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 03/12/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Liên thỏa thuận sang nhượng thửa đất số 322-140 tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại phường TT, quận BT, thành phố HCM, có diện tích 125m2 với giá tiền là 1.400.000.000 đồng của vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc và bà BĐ_Tất Mỹ Linh. Bà NĐ_Nguyễn Thị Liên đã giao số tiền trên cho vợ chồng ông BĐ_Ngọc tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Ngày 04/2/2009 bà NĐ_Nguyễn Thị Liên cùng vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc đến Phòng công chứng chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 09/3/2009 Ủy ban nhân dân quận BT đã đăng bộ tên bà NĐ_Nguyễn Thị Liên trên số đỏ, bà NĐ_Liên đã nộp thuế trước bạ nhưng vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc không chịu giao đất. Bà NĐ_Nguyễn Thị Liên khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc phải thực hiện đúng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký.
67/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1170
- 31
Tại Đơn khởi kiện ngày 13/3/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, bà NĐ_Ngô Thị Ba và ông NĐ_Ngô Văn Chiến trình bày: Cha mẹ các ông bà là cụ Ngô Văn Quýt (chết năm 1978) và cụ Hồ Thị Hiền (chết năm 2002) sinh được 4 người con là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, ông NĐ_Ngô Văn Chiến, bà NĐ_Ngô Thị Ba và bà BĐ_Ngô Thị Tiên. Khi còn sống, cụ Quýt, cụ Hiền tạo lập được tài sản là đất đai, nhà cửa và một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Sau giải phóng, hai cụ chia cho ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến mỗi người khoảng 3000 đến 4000m2 đất (ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các phần đất này). Đến khi hai cụ đều qua đời thỉ phần đất còn lại có diện tích 6.732m2 (đo thực tế 6.657m2 gồm cả đất thổ cư và đất lúa) do cụ Hiền đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 27/02/1997.
65/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1102
- 18
Đất của vợ chồng chị tại xóm Phú Yên, xã PG, huyện HK, HT gồm 2 phần: Phần phía trước do vợ chồng chị mua của ủy ban nhân dân PG; phần phía sau do cha chồng của chị (ông Cộng) cho. Ngày 16/10/2007, vợ chồng chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 186m2. Ngày 17/10/2009, anh BĐ_Lê Khắc Hồ (nhà liền kề) đã đập phá hàng rào, lấn chiếm một phần đất tại góc vườn phía sau và chặt phá một số cây cối của chị. Khi chị ngăn cản thì bị anh BĐ_Hồ đánh đập phải đi điều trị tại Bệnh viện HK với chi phí hết 3 triệu đồng, nên chị khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Hồ trả lại diện tích đất lấn chiếm, đồng thời bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cũng như tài sản bị phá hoại. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị rút yêu cầu bồi thường về các khoản thiệt hại, giữ nguyên yêu cầu buộc anh BĐ_Hồ trả lại diện tích đất lấn chiếm.
64/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 369
- 8
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 30/11/2001, bà NĐ_Hân và bà NĐ_Vy chung tiền mua 2,5 công đất (2.500m2) đất trong 4.900m2 đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37 tại An Phước, phường 11, thành phố VT của vợ chồng ông BĐ_Trần Văn Thông và bà BĐ_Trần Thị Phụng với giá 25 cây vàng (10 cây vàng/công). Do ông BĐ_Thông chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông BĐ_Thông đồng ý bớt cho bên mua 01 cây vàng để sau này làm thủ tục sang tên. Bên mua đã đã cọc 15 cây vàng, còn thiếu 9 cây. Ngày 30/7/2004, ông BĐ_Thông yêu cầu bên mua thanh toán nốt tiền nên bà NĐ_Hân trả tiếp 09 cây vàng. Các bà yêu cầu ông BĐ_Thông đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông BĐ_Thông cho biết ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo cầm để tách thửa (ông LQ_Bảo là người nhận chuyển nhượng 2400m2).