343/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3006
- 245
Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 23/2011/ĐS-PT ngày 31/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh QN và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 08/2010/DSST ngày 12/7/2010 của Toà án nhân dân thành phố QN về vụ án dân sự “Tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà NĐ_Lê Thị Đan, bà NĐ_Lê Thị Liên, bà NĐ_Lê Thị Như, bà NĐ_Lê Thị Hân, bà NĐ_Lê Thị Phương, anh NĐ_Lê Hữu Đình với bị đơn là ông BĐ_Lê Lâm.
340/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 489
- 5
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ để xác định khi còn sống vợ chồng cụ Trinh có quản lý, sử dụng đất có tranh chấp hay không mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Tuyết và lời khai của chị BĐ_Thư để bác yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Cẩm là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên là có căn cứ chấp nhận.
318/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 938
- 18
Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 132/2011/BSPT ngày 18/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 09/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện TL (nay là Tòa án nhân dân quận Nam TL), thành phố HN về vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” giữa nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Đình Ba, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm (tức NĐ_Trúc), anh NĐ_Nguyễn Minh Lợi, bà NĐ_Nguyễn Thị Lam với bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Khanh, bà BĐ_Nguyễn Thị Hân và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
37/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 390
- 7
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nhà đất tranh chấp có chiều ngang mặt đường TP là 11,20m, dài theo hẻm 7 HT là 25,6m, nên có thể chia bằng hiện vật được. Hơn nữa, nguyên đơn yêu cầu nhận lại nhà. Đồng thời kết quả xác minh ngày 26/6/2014 về nhà ở của phía nguyên đơn thấy rằng hiện nay cụ Hiếu (vợ của cụ NĐ_Nhất) không có nhà ở LQ_Oán định nên phải đi ở nhờ các con; còn ông Giang (con của vợ chồng cụ NĐ_Nhất) vẫn ở nhờ nhà vợ. Như vậy, phía nguyên đơn đang có nhu cầu về nhà ở. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại chia cho những người thừa kế của cụ NĐ_Nhất nhận giá trị là không đúng với qui định tại Khoản 2 Điều 685 Bộ luật dân sự và bảo đảm quyền lợi của những người này
36/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 864
- 9
Cụ NĐ_Ngô Thị Na (sinh năm 1914), cụ Ngô Thị Huyến (sinh năm 1922) và cụ LQ_Ngô Thị Hà (sinh năm 1935) là ba chị em ruột. Cụ Huyến và chồng là cụ Huỳnh Văn Liễu là chủ sở hữu căn nhà 115 BVĐ (số cũ là nhà 113, 114, 115), phường 9, quận X, thành phố HCM. Vợ chồng cụ Huyến, cụ Liễu có một người con là bà BĐ_Huỳnh Thị Bích Lợi. Ngày 28/8/2002, cụ Huyến lập “Tờ di chúc” giao quyền sở hữu căn số 115 BVĐ cho vợ chồng cụ NĐ_Na. Ngày 25/01/2003, cụ Huyến chết, 2006 cụ Liễu chết. Khi cụ NĐ_Na liên lạc để làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì bà BĐ_Lợi ngăn chặn. Hiện tại căn nhà nói trên do anh LQ_Phạm Quang Sang (người được bà BĐ_Lợi giao quản lý) chiếm ở. Vì vậy, cụ NĐ_Na khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận di chúc cụ Huyến lập ngày 28/8/2002