01/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính
- 755
- 9
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Tại đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, biên bản đối thoại, người khởi kiện bà NĐ_Lê Thị Toàn có bà Lê Thị Bảy là người đại diện hợp pháp trình bày: Bà NĐ_Toàn có các anh chị em gồm: Lê Văn Danh, sinh năm: 1958; Lê Thị Yến, sinh năm: 1956; Lê Thị Bảy, sinh năm: 1966. Là con ông Lê Văn Mới (1925-1977) và bà Huỳnh Thị Thức ( 1934-1994). Khi cha mẹ còn sống có tạo dựng một căn nhà ở và đất ở có diện tích là 819,52 m2. Diện tích đất ở này có từ năm 1955 do cha mẹ bà để lại và được anh ruột là Lê Văn Danh sinh năm 1958, hiện thường trú tại 406/17 Tổ 19, Khu phố 2, Phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM đã đăng ký đất ở ngày 06/8/1999 với toàn bộ diện tích đất ở là 819,52 m2 theo Quyết định 3376/QĐ-UBND ngày 11/6/1999 của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM. Trong diện tích này bà NĐ_Toàn có sử dụng 107,57m2 là một phần đất do cha mẹ để lại.
43/2013/HC- ST Sơ thẩm Hành chính
- 519
- 9
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo Đơn khởi kiện ngày 22/5/2012, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 05/6/2012, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Huỳnh Thị Phan yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy các quyết định sau: Quyết định số 10673/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với căn nhà số 763K Xa lộ Hà Nội, Khu phố 2, phường TĐ, Quận X và phần diện tích đất 163,54m2 thuộc thửa 120, một phần thửa 121, Đường tờ bản đồ số 58 phường TĐ, Quận X; Quyết định số 7851/QĐ – UBND ngày 20/6/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X về sửa đổi bổ sung tại Phương án số 197/PA – HĐBT ngày 18/10/2010, Quyết định 5971/QĐ-UBND-TTr ngày 02/5/2012 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X về giải quyết đơn khiếu nại của bà NĐ_Huỳnh Thị Phan;
161/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 581
- 15
Bà NĐ_Chính tranh chấp với ông BĐ_Đỗ Tường Hà, bà BĐ_Đinh Thị Thiên quyền sử dụng 259,7m2 đất thuộc thửa 16, tờ bản đồ số 41, thị trấn LH, huyện LĐ. Nguồn gốc đất, theo bà NĐ_Chính, là do Bà khai phá từ năm 1975 để cất nhà ở (nền xi măng, vách lá, mái tole), diện tích đất đến nay không thay đổi. Bà ở cùng 03 người con cho đến năm 2006 thì bị bão số 9 làm sập nhà. Bà làm lại nhà thì ông BĐ_Hà ngăn cản với lý do đất này ông BĐ_Hà đã được cấp sổ đỏ. Quá trình sử dụng đất này, theo bà NĐ_Chính thì Bà đã thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước đầy đủ và có đi đăng ký quyền sử dụng đất với chính quyền nhưng không được cấp giấy đỏ với lý do đất chưa có biến động. Nay bà NĐ_Chính yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất trên cho bà NĐ_Chính.
148/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 587
- 6
Diện tích đất 1048m2 thuộc thửa số 338, tờ bản đồ số 28 toạ lạc tại ấp Đ, xã HL, thị xã BR của ông nội bà NĐ_Tiến là Võ Văn Vàng (chết) để lại cho cha bà là Võ Văn Tỉnh. Sau khi ông Tỉnh mất, miếng đất này để lại cho ba chị em gồm, bà LQ_Võ Thị Thùy, ông LQ_Võ Đức Thế và bà nhưng bà là người đại diện đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo đó, diện tích thửa đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 054539 cấp ngày 24 tháng 12 năm 1995 đứng tên bà NĐ_Võ Thị Tiến, hàng năm bà NĐ_Tiến vẫn đóng thuế đất đối với thửa đất này. Do ông BĐ_Võ Đức Toàn, là cháu ruột bà NĐ_Tiến, sinh ra và lớn lên trên thửa đất này cùng với cha mẹ của bà NĐ_Tiến và bà NĐ_Tiến và do sau đó các anh chị của bà và bà lấy vợ, lấy chồng không ở đây nữa. Thế nên kể từ khi ông BĐ_Toàn lớn lên và lấy vợ thì anh chị em bà NĐ_Tiến để cho tạm quản lý sử dụng diện tích đất này. Trên thửa đất này hiện nay, ông BĐ_Toàn có xây cất một căn nhà cấp 4 có chiều ngang 4m, chiều dài 9m và trồng một số cây ăn trái ngắn hạn sau vườn. Cho đến nay, các anh chị em trong gia đình bà đã cho ông BĐ_Toàn 2.000m2 đất tại ấp Bắc, xã HL để sinh sống.
1377/2008/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 545
- 3
* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 23-4-2008 và tại bản tự khai ngày 28-5-2008, nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Tân trình bày: ông và bà BĐ_Vũ Thị Tranh kết hôn với nhau từ năm 1993, thời gian đầu sau hôn nhân vợ chồng chung sống hạnh phúc. Năm 1995 công việc làm ăn của ông không ổn định, thu nhập thấp nên vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, không khí gia đình nặng nề, thêm vào đó bà BĐ_Tranh thường cờ bạc, không chịu nghe theo lời khuyên của ông. Nay ông yêu cầu được giải quyết cho ly hôn để đầu óc không bị căng thẳng.