cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

360/2016/DS-ST: Yêu cầu hủy di chúc Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1058
  • 18

Yêu cầu hủy di chúc

14-09-2016
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện bổ sung nguyên đơn trình bày như sau: Căn cứ vào nội dung và di nguyện của người quá cố để lại phần diện tích đất nêu trên để thờ cúng thì phần đất bà Nguyễn Thị Phi để lại chưa chia, các thừa kế chỉ có quyền quản lý vào mục đích duy nhất là thờ cúng. Trên cơ sở đó quyền sử dụng đất nêu trên không thuộc quyền thừa kế của bên nào. Việc bà Nguyễn Thị Thứ liên hệ Ủy ban nhân dân phường TX, Quận X, Thành phố HCM xin xác nhận di chúc để lại phần đất cho các con là bất hợp pháp, trái với nội dung bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố HCM đã tuyên. Vì vậy, nguyên đơn đã có đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án hủy toàn bộ nội dung bản di chúc ngày 08/12/2010 do Ủy ban nhân dân phường TX, Quận X, Thành phố HCM xác nhận.


360/2016/DS-ST: Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2650
  • 63

Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế

14-09-2016
TAND cấp huyện

Đến khoảng năm 1994, bà Phi quyết định phân chia đất nêu trên cho các con trong gia đình. Bà Phi đã phân chia đất cho cháu nội là bà NĐ_Nguyễn Thị Đương đại diện cho ông Nguyễn Văn Tiên 20 cao đất, cho bà NĐ_Nguyễn Thị Bốn 20 cao đất, cho bà Nguyễn Thị Thứ 20 cao đất và mọi người đều nhận đất do bà Phi cho. Phần đất còn lại là 15 cao đất, bà Phi tiếp tục sử dụng và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất còn lại này chính là phần đất hiện nay có diện tích 1.407,4m2, tại thửa đất số 92, 95, 96, 97, tờ bản đồ số 23, Bộ địa chính phường TX, Quận X (Theo tài liệu năm 2005). Khi còn sống bà Phi có lập tờ “Phân chia ruộng đất” với mục đích là để lại phần đất còn lại sau khi đã chia cho các con cháu, hiện nay còn lại diện tích là 1.407,4m2 tại thửa đất số 92, 95, 96, 97, tờ bản đồ số 23 Bộ địa chính phường TX, Quận X, Thành phố HCM (theo tài liệu 2005) là để phần đất này làm hương hỏa, không ai có quyền bán, ai quản lý sử dụng phần đất này phải lo cúng giỗ ông bà.


357/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 382
  • 7

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

12-09-2016
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 04 tháng 3 năm 2016, lời khai trong quá trình điều tra, hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà NĐ_Hà Thị Tiên trình bày: Do là chỗ quen biết nên bà đã nhiều lần cho bà BĐ_Minh vay tiền với tổng số tiền là 211.900.000 đồng. Và đến ngày 30/11/2010, bà và bà BĐ_Minh làm giấy vay tiền với nhau, giấy vay tiền này có nội dung là “Tôi BĐ_Lê Thị Minh; Địa chỉ: 90/6B Tổ 15, Khu phố 4, phường TTH, Quận X, Thành phố HCM; ngày 5/11 tổng cộng là 211,9 triệu hẹn đến ngày ra công chứng lấy tiền sẽ trả cho chị NĐ_Hà Thị Tiên”. Chữ viết trên giấy vay tiền này là của bà BĐ_Minh và phía dưới phần nội dung trên bà BĐ_Minh đã ký tên, ghi rõ họ tên.


1812/2016/HNGĐ-ST: Ly hôn Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 718
  • 78

Ly hôn

07-09-2016
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 21/10/2014 và tại Bản tự khai, các Biên bản hòa giải nguyên đơn là ông NĐ_Mai Bá Toàn trình bày: Ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Nguyệt Hà tự nguyện yêu thương và đăng ký kết hôn ngày 04/4/1988 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 01 tại Uỷ ban nhân dân Phường 14, Quận 03, thành phố Hồ Chí Minh. Do tính cách không phù hợp, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nhiều năm nay ông và bà không còn sống chung với nhau. Tình cảm giữa ông và bà BĐ_Hà không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà BĐ_Hà.


1819/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1848
  • 19

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

01-09-2016
TAND cấp huyện

Trong bản tự khai, các biên bản lập tại Tòa, Ông BĐ_Trương Minh Quân và bà BĐ_Lê Thị Hân (bị đơn) xác nhận đã thuê nhà của ông NĐ_Cần từ năm 2002, việc thuê nhà chỉ thỏa thuận miệng, không làm văn bản, giá thuê nhà ban đầu là 800.000 đồng, đến giữa năm 2010 bị đơn tự nguyện trả mỗi tháng là 1.500.000 đồng. Bị đơn xác nhận còn nợ tiền thuê nhà của nguyên đơn nhưng ít hơn số tiền nguyên đơn nêu ra. Tuy nhiên do khi thuê nhà, nguyên đơn có hứa là khi nào nhận được tiền đền bù giải tỏa sẽ hỗ trợ bị đơn vì có công tôn tạo lại căn nhà cũ nát và bồi đắp đường đất sạt lở và nhờ bị đơn đã giữ gìn, bồi đắp nhà đất nên nguyên đơn mới nhận được tiền đền bù giải tỏa. Bị đơn sẽ trả lại nhà đã thuê nếu nguyên đơn hỗ trợ 300.000.000 đồng là số tiền bị đơn cho rằng đã bỏ ra để chống sạc lỡ, tôn tạo, sửa chữa nhà mới ở được.