17/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng chơi hụi Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1556
- 49
Theo đơn khởi kiện ngày 04 tháng 9 năm 2014 và các lời khai tại Toà án nguyên đơn bà NĐ_Kiều Thị Tô Ngọc Cúc trình bày: Vào ngày 10 tháng 9 năm 2013 âm lịch bà NĐ_Cúc có làm chủ hụi: loại hụi tuần 200.000 đồng, mở hụi tuần 01 lần, có 45 người tham gia trong đó bà BĐ_Bích tham gia 01 phần. Tuần thứ nhất hụi mở 60.000 đồng thì bà BĐ_Bích đóng 140.000 đồng; Tuần thứ hai 16/9/2013 âm lịch hụi mở 76.000 đồng thì bà BĐ_Bích đóng 124.000 đồng; Tuần thứ ba ngày 23/9/2013 âm lịch hụi mở 82.000 đồng thì bà BĐ_Bích phải đóng 118.000 đồng, tuần thứ ba hụi mở nhưng bà BĐ_Bích không được lĩnh, nhưng do bà BĐ_Bích thỏa thuận với các hụi viên khác nên bà BĐ_Bích mới được lĩnh hụi với số tiền 5.356.000 đồng. Sau khi lĩnh hụi bà BĐ_Bích đóng được 22 tuần, tổng số tiền là 4.400.000 đồng, còn lại 23 tuần bà BĐ_Bích chưa đóng, nên bà BĐ_Bích còn nợ số tiền 4.600.000 đồng.
53/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 352
- 9
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/9/2014 và ngày 19/8/2014, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Châu trình bày: Do có sự quen biết nên ông có cho bà BĐ_Dương Thị Nhi vay nhiều lần tiền, mỗi lần vay tiền bà BĐ_Nhi đều viết giấy nhận nợ. Ngày 23/7/2013 ông có cho bà BĐ_Nhi vay số tiền 4.500.000.000 đồng, có ký hợp đồng vay tiền tại Phòng công chứng, thời hạn vay 01 năm, lãi suất đôi bên thỏa thuận là 2%/ tháng (theo hợp đồng vay tiền này thể hiện lãi suất do đôi bên thỏa thuận), từ khi vay cho đến nay bà BĐ_Nhi không trả tiền lãi cho ông, việc ký hợp đồng vay tiền tại Phòng công chứng xuất phát từ các giấy vay tiền trước nên ông và bà BĐ_Nhi thống nhất cộng lại thành giấy vay tiền ký tại phòng công chứng và ông yêu cầu tính lãi từ ngày ký hợp đồng tại Phòng công chứng.
187/2015/DS-ST: Ly hôn (Vợ yêu cầu) Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 374
- 26
Tại đơn khởi kiện ngày 25/9/2013 bản tự khai ngày 16/12/2013, bà NĐ_Lưu Mỹ Loan trình bày: Bà và ông BĐ_Wan Shou Ken quen biết và có đăng ký kên hôn theo số 423, quyển số 03 cấp ngày 29/01/1999 do Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp. Sau khi kết hôn bà qua Đài Loan sinh sống được 04 tháng. Tháng 5/2000, bà xin về thăm cha mẹ ở Việt Nam nhưng khi bà về Việt Nam thì ông BĐ_Wan Shou Ken cũng không quan tâm hỏi thăm bà. Bà nhận thấy cuộc sống chung không được hạnh phúc, bà không biết nhiều tiếng hoa phổ thông cũng không biết chữ Hoa nên ngôn ngữ bất đồng. Từ năm 2000 đến nay hai người không còn liên lạc với nhau. Nay tình cảm của bà với ông BĐ_Wan Shou Ken không còn nên bà yêu cầu xin ly hôn.
126/2015/DS-ST: Tranh chấp về quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1509
- 32
Theo đơn khởi kiện ngày 24/4/2012 và các biên bản tự khai, hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn là những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông NĐ_Diêu Minh Mạnh do bà Tạ Thị Trinh đại diện trình bày: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án công nhận quyền sở hữu 03 căn nhà cùng một số 148 TĐX, phường NCT, Quận Y, Thành phố HCM thuộc quyền sở hữu của cha mẹ nguyên đơn là ông Diêu Văn Xái, bà Nguyễn Thị Liễu và yêu cầu bị đơn là BĐ_Nguyễn Thị Kim Ánh, bà BĐ_Nguyễn Thị Bạch Trà, ông BĐ_Phan Văn Lộc phải trả lại căn nhà trên cho các con ông Xái do bà Tạ Thị Trinh đại diện nhận với các căn cứ sau: Căn nhà 148 TĐX (trước đây là đường PD), phường NCT, Quận Y có nguồn gốc là do ông Diêu Văn Xái xây dựng trên trên phần đất mướn của ông Huỳnh Văn Đây, ông Xái cất nhà để cho mẹ vợ là bà Lý Thị Tám ở để thờ cúng, ông Xái cùng vợ con ở nơi khác, việc ông Xái cất nhà thể hiện trên giấy phép xây dựng số 175 ngày 22/2/1942 do Đô trưởng Sài Gòn ký. Bà Lý Thị Tám có 02 người con gồm
28/2015/DS-ST: Đòi lại tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 743
- 16
Trong đơn khởi kiện ngày 07/5/2012 và tại Toà nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Ngân cùng Luật sư bảo vệ quyền lợi trình bày: Vào ngày 30/5/2011 Công ty TNHH một thành viên dịch vụ công ích TĐ có yêu cầu ông ký nhận số nợ 100.000.000 đồng và ông đã tiến hành trả xong vào cuối năm 2011, tuy nhiên thực tế ông không còn thiếu Công ty số nợ này. Ngoài ra vào năm 1993 ông có ký hợp đồng với Công ty công trình giao thông đô thị & quản lý nhà TĐ để thi công dự án đường XRTH tại huyện HTB, BT, tuy nhiên sau khi thực hiện xong thì có người mạo danh ông đã nhận từ Công ty số tiền 50.000.000 đồng, thực tế ông chưa nhận số tiền này. Vào năm 1997 ông có ký hợp đồng với Công ty công trình giao thông đô thị & quản lý nhà TĐ để thi công dự án tường rào, cổng nhà văn hóa huyện HTB, BT, tuy nhiên sau khi thực hiện xong thì Công ty chưa thanh tốn cho ông số tiền 160.000.000 đồng (về toàn bộ các tài liệu chứng từ về sự việc nêu trên là có, nhưng do đã quá lâu, nên bị thất lạc hết không còn và việc ông thực hiện thi công các công trình do Công ty công trình giao thông – đô thị và quản lý nhà TĐ ký với chủ đầu tư tại BT thì giữa ông và công ty chỉ thỏa thuận bằng miệng). Vì vậy ông làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc BĐ_Công ty TNHH một thành viên dịch vụ công ích TĐ (được chuyển đổi từ Công ty công trình giao thông – đô thị và quản lý nhà TĐ) phải trả lại cho ông số tiền nêu trên, tổng cộng là 310.000.000 đồng ngay sau khi Tòa giải quyết.