cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

619/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1468
  • 32

Ly hôn

26-06-2015
TAND cấp tỉnh

Theo nguyên đơn bà NĐ_Kiều Thị Khuyên trình bày: Năm 2011, bà có quen biết với ông BĐ_Chen Yi Wen và tiến đến hôn nhân. Hai bên có đăng ký kết hôn, được Uy ban nhân dân Thành phố HCM cấp giấy chứng nhận kết hôn số 794, quyển số 04 ngày 09/3/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, ông BĐ_Chen Yi Wen có những hành vi không tôn trọng bà. Nay bà nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với ông BĐ_Chen Yi Wen nên bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Chen Yi Wen.


492/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 313
  • 6

Ly hôn

25-05-2015
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện ngày 30/6/2014 và bản tự khai ngày 30/7/2014, bà NĐ_Dương Hồ Hạnh trình bày: Bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) tự nguyện kết hôn với nhau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 1444, quyển số 08 ngày 28/5/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) chung sống được một thời gian ngắn thì ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) trở về Hoa Kỳ. Từ đó, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) chỉ liên lạc qua điện thoại hoặc email nhưng không thường xuyên. Ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) không lần nào về thăm bà tại Việt Nam. Đến nay, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) đã không còn liên lạc với nhau. Do điều kiện sống xa cách, bất đồng ngôn ngữ nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale).


485/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1613
  • 18

Ly hôn

22-05-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 25/11/2014, bà NĐ_Nguyen Thi Thanh Thanh (NĐ_Nguyễn Thị Thanh Thanh) trình bày: Bà và ông BĐ_Lê Văn Quyết tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ số 1796, quyển số 06 ngày 26/05/2009 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà trở về Đức để làm việc, thỉnh thoảng bà về Việt Nam thăm ông BĐ_Quyết. Bà nhận thấy giữa bà và ông BĐ_Lê Văn Quyết có sự bất đồng ý kiến và không hòa hợp. Dần dần bà và ông BĐ_Quyết liên lạc ít đi và đến năm 2011 thì không còn liên lạc với nhau nữa. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Lê Văn Quyết. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt tại các phiên hòa giài và xét xử cho đến khi kết thúc vụ án.


664/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3024
  • 74

Tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất ở

10-06-2014
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 02 năm 2002, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Tích Vy và bà NĐ_Nguyễn Tuyết Nhân yêu cầu được công nhận “Văn tự ủy quyền sở hữu cho con” ngày 012/3/1987 và “Văn tự ủy quyền nhà” ngày 30/11/1987 về căn nhà số 314/16 NH, Phường 10 (sau đó đổi là Phường 4) Quận Y, Thành phố HCM (nay là số 90/2 Hoàng Sa, phường 8, Quận Y) của cụ BĐ_Nguyễn Phú Hữu ủy quyền là hợp pháp để ông bà đi làm quyền sở hữu nhà do ông bà đứng tên. Vì đã được cụ BĐ_Nguyễn Phú Hữu là cha vợ của ông NĐ_Lê Tích Vy tặng cho và Ủy quyền thừa kế nhà năm 1987 có Ủy ban nhân dân xã BT, huyện CK, tỉnh TG xác nhận và ra Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận Y, Thành phố HCM xác nhận. Ông bà đã đi làm thủ tục năm 1987 để chuyển quyền sở hữu tên cho ông bà nhưng đến Sở nhà đất (cũ) này là Sở Tài nguyên và Môi trường làm thì chưa có giấy của Cụ Tuyết xác nhận nên chưa làm được.


215/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3316
  • 110

Tranh chấp quyền sử dụng đất

30-12-2014
TAND cấp huyện

Vào năm 1990, ông Tài và bà Truyền lúc đó còn sống đã xây dựng lại căn nhà, dỡ bỏ hàng cột gỗ bên trái, sử dụng nhờ vách tường nhà 336 ĐVB mà không xây vách riêng. Còn bên phải không dỡ bỏ hàng cột do ông Cương và bà Năm đề nghị ông Tài và bà Truyền để lại cho ông bà sử dụng, khi nào ông bà xây dựng nhà thì sẽ trả lại đất vì nếu tháo dỡ hàng cột thì nhà 340 ĐVB sẽ bị sập do không có gì chống đỡ. Do giữa hai nhà có quan hệ thân thiết nên việc ông Cương, bà Năm đề nghị nêu trên không làm giấy tờ, đồng thời ông Tài và bà Truyền đã xây bức tường riêng, sát nhà 340 ĐVB để sử dụng cho đến nay. Vách sau của căn nhà 338 ĐVB cũng là vách riêng. Sau khi ông Tài và bà Truyền xây dựng nhà được một thời gian thì ông Cương và bà Năm cũng xây dựng lại toàn bộ căn nhà. Khi xây dựng nhà thì ông Cương và bà Năm đã tháo dỡ hàng cột gỗ của gia đình bà, đoạn giữa có chiều dài khoảng 8m thì xây vách tường riêng áp sát vách tường nhà 338 ĐVB, còn phía trước và phía sau sử dụng nhờ vách tường nhà 338 của gia đình bà.