cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

80/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1742
  • 50

Ly hôn

22-01-2016
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện ngày 13/6/2014, bản tự khai ngày 29/8/2014, bà NĐ_Bành Vi Minh trình bày: Năm 2001 bà và ông BĐ_Lê Vĩnh Toàn quen biết nhau qua sự giới thiệu của của bạn bè và tự nguyện kết hôn vào ngày 07/3/2003 theo giấy chứng nhận kết hôn số 859, quyển số 5 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp. Sau khi kết hôn ông BĐ_Lê Vĩnh Toàn trở về Canada sinh sống. Do khoảng cách địa lý nên cả hai không gặp nhau và chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại. Từ đó giữa bà và ông BĐ_Lê Vĩnh Toàn thường xảy ra mâu thuẫn và ông BĐ_Lê Vĩnh Toàn cũng không muốn bảo lãnh bà sang Canada để đoàn tụ. Nay tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông BĐ_Lê Vĩnh Toàn.


33/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 360
  • 24

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

18-01-2016
TAND cấp huyện

Qua sự giới thiệu của bà LQ_Nguyễn Thị Son, ngày 21/3/2011 bà BĐ_Đỗ Thị Bông có làm giấy để vay của bà số tiền 600.000.000đồng, thời hạn vay là 60 ngày để bà BĐ_Bông làm giấy tờ nhà đất, lãi suất là 5%/tháng. Do là tiền chung của hai vợ chồng nên ngày 21/3/2011 bà chưa giao tiền, mà đến ngày 22/3/2011 bà và chồng là ông LQ_Nguyễn Cao Thịnh đến gặp bà BĐ_Bông để giao tiền, bà BĐ_Bông đồng ý lập lại giấy vay tiền mới ngày 22/3/2011 và ký tên trên giấy mượn tiền. Ngay sau khi nhận tiền bà BĐ_Bông giao tiền cho bà LQ_Nguyễn Thị Son là người làm giấy tờ nhà đất cho bà BĐ_Bông. Bà LQ_Son có đưa lại cho bà 30.000.000 đồng nói là bà BĐ_Bông trả tiền lãi của tháng đầu tiên. Hết hạn 60 ngày bà BĐ_Bông không trả tiền gốc và lãi cho bà, bà có yêu cầu bà BĐ_Bông trả tiền thì bà BĐ_Bông viện lý do là đưa tiền vay cho bà LQ_Son để đóng thuế đất nên chưa trả.


22/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 567
  • 23

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

15-01-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/12/2014 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nhận thấy ngày 26/12/2013 bị đơn đã ký hợp đồng tín dụng số 98/2013/HĐTDDA-CN với NĐ_Ngân hàng TMCP ABI, để vay số tiền 2.500.000.000 đồng, thời hạn vay 24 tháng, lãi suất 13%/năm. Ông BĐ_Sâm đã sử dụng tài sản đảm bảo vay là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tọa lạc tại địa chỉ 114/1A đường TC, khu phố 1, phường TB, quận TĐ do ông BĐ_Võ Văn Sâm đứng tên. Ngoài ra, theo hợp đồng tín dụng thì ông BĐ_Sâm còn thế chấp bổ sung tài sản là quyền sử dụng đất tọa lạc tại ấp Phước Hạnh B, xã PH, huyện LH, tỉnh VL. Tuy nhiên, đất này chưa làm thủ tục thế chấp theo quy định. Trong quá trình vay, bị đơn đã không trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả ngay số nợ gồc 2.500.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 27/12/2013 đến hết ngày 06/7/2015 (ngày Tòa lập biên bản cuối cùng giữa 2 bên) là 581.816.596 đồng (bao gồm lãi trong hạn: 422.180.544 đồng, lãi quá hạn: 139.000.000 đồng, phạt chậm trả lãi: 20.636.042 đồng). Như vậy, tổng số tiền mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán là 3.081.816.596 đồng.


11/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 4371
  • 156

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

07-01-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Duy Loan và lời trình bày của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Anh Đào: Vào lúc 13 giờ ngày 06/2/2011 bà NĐ_Nguyễn Duy Loan có đến nhà vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Công Hiên, bà BĐ_Lê Thị Di (sinh năm 1970) là chủ phòng trọ ở địa chỉ 67/51/4 đường số 38, khu phố 8, phường HBC, quận TĐ, Thành phố HCM để tìm anh Lê Doãn Hậu nhưng không gặp, bà NĐ_Loan gặp em gái của anh Hậu là BĐ_Lê Thị Di (sinh năm 1994) và xin số điện thoại của anh Hậu. Trong lúc bà NĐ_Loan đang nói chuyện với em Dung thì bà BĐ_Di vợ ông BĐ_Hiên quát lớn: “Dung, mày vô nhà”. Bà NĐ_Loan nói với em Dung chờ để bà NĐ_Loan hỏi chuyện thêm nhưng bà BĐ_Di vợ ông BĐ_Hiên không đồng ý đã quát lớn và đe doạ không cho em Dung vào nhà nếu còn đứng nói chuyện với bà NĐ_Loan.


36/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2797
  • 110

Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà

24-11-2010
TAND cấp huyện

Ngày 20/9/2007 qua sự giới thiệu của ông Thang Lưu Hồng và bà Nguyễn Thị Sâm thì ông có đến nhà 222 HTP, phường TTT, Quận Z, thành phố HCM để xem nhà. Được biết bà BĐ_Hoa bán căn nhà 222 HTP cấu trúc vách tường, mái tôn, phía sau có gác gỗ, diện tích 6,5m x 38m = 247m2 với giá 7.100.000.000đ (bảy tỷ một trăm triệu đồng) tương đương 25.000.000đ/m2, theo bà BĐ_Hoa trình bày nhà có giấy tờ đầy đủ. Ngày 22/9/2007 ông NĐ_Ngà đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), ngày 23/9/2007 đặt cọc tiếp 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), tổng số tiền đặt cọc đã đưa là 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) hai bên có ký “Giấy đặt cọc bán nhà” vào ngày 22/9/2007. Sau khi đặt cọc ông có yêu cầu bà BĐ_Hoa đưa giấy tờ nhà cho ông xem và bà BĐ_Hoa có photo cho ông 01 bản giấy chủ quyền nhà, do có việc bận nên ông về ngay chưa xem kỹ nội dung giấy chủ quyền.