1618/2014/DSPT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 331
- 4
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn - Bà NĐ_Đỗ Thị Hồng Son trình bày: Bà và bà BĐ_Tính có quen biết nhau, Bà có cho bà BĐ_Tính vay mượn tiền nhiều lần để kinh doanh shop quần áo và bà BĐ_Tính đã thanh toán hoàn tất. Ngày 25/12/2010, bà BĐ_Tính có hỏi vay Bà số tiền 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng), hai bên lập hợp đồng vay tiền, với thời hạn vay là bốn tháng, lãi suất thỏa thuận 3%/ tháng. Sau khi ký hợp đồng và nhận tiền cho đến nay bà BĐ_Tính chưa thanh toán khoản tiền nào cho Bà, Bà đã nhiều lần yêu cầu bà BĐ_Tính trả nợ vay, nhưng bà BĐ_Tính không trả. Nay Bà yêu cầu bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Tính phải trả cho Bà số tiền 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng), trả ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu bà BĐ_Tính trả tiền lãi suất.
1533/2014/DSPT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 887
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 12/11/2009, đơn khởi kiện bổ sung ngày 09/5/2014, các biên bản trong hồ sơ - bà NĐ_Trần Thụy Chi Châm có người đại diện theo ủy quyền là ông LQ_Trần Văn An trình bày: Năm 1963, bà Trần Thị Chao (chết năm 1979) là bà nội của bà NĐ_Trần Thụy Chi Châm có cho ông Trần Văn Hết ở nhờ tại phần đất có diện tích 153m2, thửa đất số 178, tờ 20 thuộc ấp NT, xã TTT, huyện HM, Thành phố HCM. Trên phần đất này, bà Chao đã xây dựng một căn nhà tường gạch, mái tole, nền xi măng có diện tích khoảng 32m2 nay có địa chỉ là 21/4 ấp NT, xã TTT, huyện HM, Thành phố HCM. Việc cho ở nhờ không lập thành văn bản chỉ nói miệng
1486/2014/DSPT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 387
- 9
Phần đất tranh chấp có diện tích 39,4m2 (thuộc một phần thửa số 38, 41, 42 tờ bản đồ thứ 14, Bộ địa chính phường TP, Quận X theo tài liệu đo đạc năm 2003) do gia đình ông sử dụng từ năm 1953. Năm 2004 ông BĐ_Bình lấn sang phần đất này nên phát sinh tranh chấp, ông làm đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân phường TP, năm 2009 ông BĐ_Bình chặt lá dừa, làm hàng rào. Ông nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Bình tháo dỡ phần mái tôn che trả lại phần đất này nhưng phía ông BĐ_Bình không thực hiện. Theo bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập, ông yêu cầu Tòa án buộc ông BĐ_Bình trả phần đất có diện tích 39,4m2 mà ông BĐ_Bình lấn chiếm của ông và đã được cấp giấy chứng nhận (thể hiện trên bản đồ hiện trạng vị trí - xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ - Sở tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 22/10/2012 là các vị trí số 17, 18, 19 tại một phần thửa số 38, 41, 42 tờ bản đồ thứ 14, Bộ địa chính phường TP, Quận X theo tài liệu đo đạc năm 2003). Đối với phần đất ông BĐ_Bình đang quản lý sử dụng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận (thuộc các vị trí 20, 21 của bản đồ hiện trạng vị trí - xác định) ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
1475/2014/DSPT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1850
- 81
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Căn nhà 45/12 Đường 11, Phường Y, quận GV, Tp.HCM là do bà mua của bà BĐ_Lưu Thị Thu Yến vào năm 2007, đã công chứng tại Phòng công chứng số 5 với giá 600.000.000 đồng. Bà đã thanh toán đầy đủ cho bà BĐ_Yến. Ngoài ra, bà BĐ_Yến còn mượn thêm của bà 50.000.000 đồng. Nhà đã được làm thủ tục sang tên qua tên bà. Khi mua nhà bà có đi xem xét hiện trạng căn nhà, bà BĐ_Yến thông báo cho bà biết hiện trong căn nhà đó có cha, mẹ của bà BĐ_Yến là ông Lưu Văn Hiệt, bà Nguyễn Thị Hường đang sinh sống. Bà BĐ_Yến yêu cầu bà cho ông Hiệt, bà Hường ở thêm hai tháng, bà cũng đồng ý. Ngoài cha mẹ bà BĐ_Yến bà không nghe nói có thêm người nào khác cùng sinh sống trong căn nhà đó. Ông Hiệt bà Hường biết rõ bà là người mua nhà và có nói với bà là nhà này là của bà BĐ_Yến nên mọi quyết định là do bà BĐ_Yến. Hiện trạng căn nhà là một gác, một lửng.
1471/2014/DSPT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 409
- 14
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do quen biết nên bà NĐ_Phạm Thị Lành cho bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Niên vay số tiền 35.200.000đồng theo giấy vay tiền ngày 04/8/2013. Thời hạn vay là 01 tháng, đến thời hạn trả nợ bà BĐ_Niên không trả tiền nên ngày 12/02/2014 bà NĐ_Lành có đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Niên phải trả số tiền 35.200.000đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà NĐ_Lành xin rút một phần yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bà BĐ_Niên trả số tiền 33.200.000đ vì bà BĐ_Niên đã trả được cho bà NĐ_Lành 2.000.000đồng tiền vốn. Bà NĐ_Lành xác định quá trình mượn tiền chỉ một mình bà BĐ_Niên thực hiện, chồng bà BĐ_Niên là ông LQ_Nguyễn Anh Khoa không có liên quan đến việc mượn tiền nên bà chỉ yêu cầu một mình bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Niên có trách nhiệm trả nợ.