100/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1507
- 24
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm xác định yêu cầu cầu khỏi kiện như sau: Bà và một số người quen biết và rủ nhau cùng chơi hụi. Mục đích của chơi hụi là góp vốn cho nhau dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên. Do được tin tưởng nên mọi người cử Bà làm chủ hụi, là người có trách nhiệm thu tiền hụi của các thành viên để đưa cho người hốt hụi. Người hốt hụi phải chi cho bà số tiền là 50% trên mệnh giá của phần hụi, ví dụ hụi 1.000.000 đồng một phần thì khi hốt hụi thành viên nào được hốt sẽ chi cho Bà 500.000 đồng gọi là tiền hoa hồng. Chủ hụi là người ghi và giữ sổ hụi và khi bắt đầu tổ chức dây hụi thì chủ hụi có trách nhiệm ghi cho mỗi thành viên một tờ giấy để theo dõi, nội dung tờ giấy ghi ngày tháng năm bắt đầu chơi, tên các thành viên chơi hụi, tổng số phần hụi, nếu có tranh chấp thì các thành viên căn cứ vào tờ giấy ghi hụi sẽ gặp chủ hụi để giải quyết. Mọi người thoả thuận bằng miệng với nhau về cách chơi.
98/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 357
- 8
Nguyên đơn vợ chồng ông NĐ_Dương Văn Long bà NĐ_Trần Thị Thủy trình bày: Nguồn gốc 764m2 thuộc thửa 287 tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại xã PT, huyện XM, tỉnh BR - VT là một phần đất trong tổng diện tích khoảng 3,5 mẫu của cha mẹ ông NĐ_Long để lại cho ông NĐ_Dương Văn Long. Mặc dù vợ chồng ông NĐ_Long vẫn sử dụng đất, nhưng do sơ xuất khi đăng ký kê khai làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất, nên năm 1997 ông NĐ_Long được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 32.925m2. Vợ chồng ông BĐ_Huỳnh Minh Hùng bà BĐ_Ngô Thị Ngân là người có đất liền kề với đất của vợ chồng ông NĐ_Long đã đăng ký kê khai phần diện tích ông bà kê khai bị thiếu, hiện nay qua đo đạc xác định được phần diện tích đất này là 764m2 thuộc thửa 287 nay là thửa 547, tờ bản đồ số 08, xã PT. Do vợ chồng ông BĐ_Hùng đã chuyển nhượng diện tích đất này cho ông LQ_Nguyên Văn Soa, nên vợ chồng ông NĐ_Long có yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hùng phải trả cho ông bà diện tích đất này.
92/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 220
- 5
Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Hằng và ông BĐ_Trần Văn Linh là cháu, gọi ông NĐ_Hùng, bà NĐ_Thu là cậu mợ. Năm 1986, vợ chồng ông NĐ_Hùng thấy vợ chồng ông BĐ_Linh không có chỗ ở nên vợ chồng ông NĐ_Hùng cho vợ chồng ông BĐ_Linh cất nhà lá, vách ván, mái tole ở nhờ trên đất ngang 4,5m, dài 8m toạ lạc tại khu phố HĐ, thị trấn LH, huyện LĐ. Hai bên không làm giấy tờ cho ở nhờ nhưng có thoả thuận miệng khi nào vợ chồng ông BĐ_Linh có tiền mua đất thì trả lại đất cho vợ chồng ông NĐ_Hùng. Đến năm 1988, vợ chồng ông BĐ_Linh xin phá bỏ nhà lá cất nhà cấp 4 vì mưa hay dột, vợ chồng ông NĐ_Hùng đồng ý. Cách đây 3-4 năm, vợ chồng ông BĐ_Linh tự ý kêu thợ xây cất thêm chiều dài 6m không hỏi ý kiến vợ chồng ông NĐ_Hùng. Nay vợ chồng ông NĐ_Hùng không cho vợ chồng ông BĐ_Linh ở nữa, yêu cầu trả lại đất, đồng ý hoàn trả lại giá trị nhà theo quy định Nhà nước.
89/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 253
- 5
Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất, bà BĐ_Miển trình bày như sau: Vào năm 1965, bà BĐ_Miển và ông LQ_Cởn mua của ông Lê Văn Dương và bà Đào Thị Hai diện tích đất nêu trên và 01 căn nhà (bà BĐ_Miển, ông LQ_Cởn đang sử dụng nhà). Đây là nhà đất mà ông Lê Văn Tải chia cho ông Dương. Tại thời điểm ông Dương được chia nhà đất, thì ông Lê Văn Đẩu (anh ông Dương) cũng được ông Lê Văn Tải chia cho nhà và đất. Sau khi ông Đẩu qua đời, đến năm 1977, bà Dư Thị Giàu chia đất mà ông Đẩu được hưởng nêu trên làm hai phần cho ông LQ_Cởn và ông BĐ_Dũng, mỗi người một phần. Khi bà Giàu chia đất cho ông LQ_Cởn, ông BĐ_Dũng thì bà Giàu đã lấy đất mà vợ chồng bà BĐ_Miển mua của ông Dương (phần đất tranh chấp) để chia, bà BĐ_Miển không chấp nhận, đã khiếu nại tại Ủy ban nhân dân xã Phước Long Thọ. Kết quả giải quyết thì phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà BĐ_Miển. Năm 1981, bà BĐ_Miển giao diện tích nêu trên cho bà Giàu sử dụng. Năm 1992, bà Giàu chết, ông BĐ_Dũng tiếp tục sử dụng. Vào năm 2008, Ủy ban nhân dân huyện ĐĐ đã thu hồi một phần diện tích đất tranh chấp là 515m2 để cải tạo nâng cấp Tỉnh lộ 52. Diện tích đất còn lại là 65m2.
51/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1160
- 11
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Tuân trình bày: Diện tích đất khoảng 4.293m2 hiện gia đình ông BĐ_Nguyễn Văn Nết, bà BĐ_Nguyễn Thị Hồng và bà BĐ_Nguyễn Thị Linh đang ở và canh tác là 01 phần trong tổng diện tích đất của ông ở thửa 63, 80, 81, tờ bản đồ số 15, ấp Phú Thạnh, xã MX, huyện TT, tỉnh BR - VT. Đất này ông nhờ vợ chồng bà LQ_Nguyễn Thị Sương và ông LQ_Phạm Văn Tình mua hộ từ năm 1992 và giao cho vợ chồng ông LQ_Tình trông coi. Sau đó ông LQ_Tình bà LQ_Sương làm giấy sang lại đất cho ông vào ngày 3.3.1992, có xác nhận của chính quyền địa phương. Năm 1994, bà LQ_Sương có cho vợ chồng ông BĐ_Nết, bà BĐ_Hồng mượn 30m2 đất để xây nhà ở, hẹn trong vòng 6 tháng sẽ trả (có làm giấy tay ngày 9.1.1994) nhưng khi đến hạn ông nhiều lần đòi lại đất mà vợ chồng ông BĐ_Nết không trả. Năm 1998, ông đã được UBND Huyện TT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, LQ_Ủy ban nhân dân xã MX cấp nhà tình thương cho gia đình ông BĐ_Nết xây trên đất của ông. Đất đang tranh chấp với gia đình ông BĐ_Nết là tài sản riêng của ông, không liên quan đến vợ ông và vợ ông đã có văn bản xác nhận điều này.