04/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 556
- 6
Ông Nguyễn Văn Mạnh và bà LQ_Lê Thị Út sống chung với nhau sinh được 07 người con: NĐ_Nguyễn Văn Thi, LQ_Nguyễn Thị Điệp, LQ_Nguyễn Văn Kiên, NĐ_Nguyễn Thị Xanh, NĐ_Nguyễn Văn Tùng, BĐ_Nguyễn Văn Dũng, NĐ_Nguyễn Thị Chín. Vào năm 1978, hộ gia đình ông Mạnh được Nhà nước giao cho một phần diện tích đất trồng lúa các thửa đất số 205, 247, 246, 266, 287, 307, 314 tờ bản đồ số 32 xã LD, huyện ĐĐ (thửa cũ là 84, 85, 68 và 142, tờ bản đồ số 20) tổng diện tích các thửa đất là 8.028,2m2. Trong quá trình canh tác, hộ ông Mạnh có khai khẩn thêm thửa đất màu liền kề là thửa đất 231 tờ bản đồ số 32 (thửa cũ là 12 tờ bản đồ số 20) với tổng diện tích là 2.061,6m2. Ông Mạnh chết vào ngày 01/2/1995 không để lại di chúc, bà LQ_Út vợ ông Mạnh vẫn còn sống, các thửa đất trên ông BĐ_Dũng là người trực tiếp quản lý sử dụng đã được Nhà nước xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy số 01354/QSDĐ ngày 24/6/2002 của Ủy ban nhân dân huyện LĐ.
149/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 307
- 1
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Hảo xác đinh yêu cầu khởi kiện như sau: Bà NĐ_Hảo cho bà BĐ_Trần Tú Linh vay tiền, tổng cộng 3 lần, với tổng số tiền là 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng, cụ thể như sau: Lần một: Ngày 14/01/2008, cho bà BĐ_Linh vay 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, lãi suất 3% tháng, khi vay có thế chấp chủ quyền nhà đứng tên vợ chồng bà BĐ_Linh và ông LQ_Hùng, hai bên có lập giấy tay do bà LQ_Trần Thị Thu Hương viết và cùng bà BĐ_Linh ký tên, Lãi suất sẽ trả cùng thời điểm trả vốn, thời hạn vay là 4 tháng. Lần hai: Vào ngày 21/02/2008, bà NĐ_Hảo tiếp tục cho bà BĐ_Linh vay thêm 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng, lãi 3% tháng, thời gian vay là 4 tháng, chỉ nói miệng và ghi thêm vào giấy nợ lần một.
20/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 580
- 5
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 31 tháng 12 năm 2003 anh BĐ_Linh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không công nhận cháu Nguyễn Văn Phương là con chung của anh với chị NĐ_Lộc, không thống nhất cấp dưỡng nuôi cháu Phương cũng như tiền lo chi phí sinh sản bằng 500.000 đồng. Anh BĐ_Linh yêu cầu Hội đồng xử án tổ chức giám định ADN để xác định cháu Phương có phải là con chung của Anh với chị NĐ_Lộc, nếu cháu Phương đúng là con của anh, anh sẽ chịu toàn bộ chi phí giám định cùng như tiền xe đi lại của gia đình chị NĐ_Lộc, tiền lãi theo lãi suất Ngân hàng tương ứng số tiền mà gia đình chị NĐ_Lộc đã ứng trước cho việc giám định (6.000.000 đồng). Chị NĐ_Lộc và bà NĐ_Hồng (mẹ của chị NĐ_Lộc) cũng yêu cầu Hội đồng xử án tổ chức giám định ADN nếu cháu Phương không phải là con chung của anh BĐ_Linh với chị, thì chị NĐ_Lộc và bà NĐ_Hồng sẽ chịu toàn bộ chi phí giám định cũng như tiền xe đi lại của anh BĐ_Linh và gia đình anh, tiền lãi theo lãi suất của Ngân hàng tương ứng với số tiền mà gia đình anh BĐ_Linh đã ứng trước cho việc giám định (6.000.000 đồng).
19/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 571
- 4
Nguyên đơn chị NĐ_Nguyễn Thị Hồng Ngân trình bày: Trước đây chị kết hôn với anh BĐ_Võ Văn Hiệu vào năm 1997, không có đăng ký kết hôn, ngày cưới bên anh BĐ_Hiệu có cho chị 01 đôi bông tai vàng 24K nặng 01 chỉ và 01 sợi dây chuyền vàng 24K nặng 02 chỉ. Tổng số nữ trang kể trên vợ chồng thống nhất bán để cất nhà riêng, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 5-6 tháng thì xảy ra mâu thuẫn nhỏ và vợ chồng tiếp tục chung sống. Đến năm 2000 chị sinh 01 đứa con và từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Lý do anh BĐ_Hiệu chơi cờ bạc, đá gà, chị báo cho cha mẹ chồng hay nhưng anh BĐ_Hiệu không sửa đổi mà tánh nào tật nấy, có lần chị khuyên ngăn anh BĐ_Hiệu đánh đập và đuổi chị ra khỏi nhà nhiều lần, chị xét thấy hạnh phúc vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên chị quyết định ra đi về bên cha mẹ chị ở và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ năm 2000 cho đến nay.
96/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 797
- 11
Ông Nguyễn Văn Quéo và bà Lê Thị Kiều chung sống với nhau có tất cả 10 người con. Trong đó có NĐ_Nguyễn Văn Hùng và BĐ_Nguyễn Thị Sương. Tất cả các con của ông bà hiện tại đã có gia đình tư riêng. Tuy nhiên sau khi ông Quéo qua đời, bà Kiều chung sống với người con gái út là chị BĐ_Sương. Đến năm 2002 bà Kiều mất để lại khối tài sản gồm công đất vườn và 01 công đất ruộng.