07/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1345
- 22
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Theo lời khai của các đương sự tại cấp sơ thẩm thì lúc sinh thời, Ông Du và bà BĐ_Sinh có các tài sản chung gồm: Căn nhà cấp 4A5 diện tích 78,96m2, nhà tạm 72,96m2 nằm trên thửa đất số 60, tờ bản đồ số 40, diện tích 20.939m2 trỏng đó co 300m2 đất thổ cư, Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 40, diện tích 9.051m2 cùng tòạ lạc tại Ấp Trảng Lớn, HD, TT, tỉnh BR-VT. Đất đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995 đứng tên ông Trần Văn Du. Năm 2001 bà BĐ_Sinh làm thủ tục sang tên toàn bộ diện tích đất trên từ ông Du sang tên bà BĐ_Sinh. Năm 2004 đã làm thủ tục chuyển QSD thửa số 101 sang tên ông LQ_Trần Hữu Đinh.
16/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 986
- 26
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất
Ông Nguyễn Văn Miền và bà Bùi Thị Dực chung sống với nhau sinh được sáu người con gồm: bà LQ_Nguyễn Thị Hiền sinh năm 1951; ông Nguyễn Tân sinh năm 1954; bà LQ_Nguyễn Thị Hân sinh năm 1958; bà LQ_Nguyễn Thị Ngân sinh năm 1961; bà LQ_Nguyễn Thị Thủy sinh năm 1964; bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc sinh năm 1967. Về tài sản, ông Miền và bà Dực có tạo lập được hai thửa đất gồm: thửa số 127, tờ bản đồ số 14, xấ DT, có diện tích 1.800m2 và thửa số 131, tờ bản đồ số 14, xã DT, có diện tích 815m2 (trong đó có 200m2 đất thổ cư) trên diện tích đất này còn có một ngôi nhà cấp bốn.
58/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2496
- 42
Sinh thời cha các nguyên đơn (ông Long) tạo lập được một số tài sản trong đó có các căn nhà và đất ở ST và khi còn sống thì ông Long đã chia cho các con của mẹ kế, còn lại căn nhà 3 tầng gắn liền diện tích đất thổ cư 53,2m2, tại thửa 412, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại số 28 đường HBT, khóm 1, phường 1, thành phố ST, hiện do cha là ông Long và mẹ kế là bà BĐ_Mai đứng tên chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Khi còn sống, sợ sau này anh em có sự tranh chấp tài sản, nên cha các nguyên đơn đã đến Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh ST lập bản di chúc vào ngày 16/01/2007, để lại toàn bộ tài sản của ông trong khối tài sản chung của vợ chồng là căn nhà và đất nói trên, cho hai người con là các nguyên đơn, mỗi người được hưởng phân nửa giá trị bằng nhau
14/2001/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 368
- 16
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vào năm 2008 vợ chồng ông bà BĐ_Lê Thị Đan và ông BĐ_Nguyễn Văn Duy có vay của ông Nguyễn Văn Hùng và NĐ_Trần Thị Thy 20 lượng vàng 99% và đến tháng 01 năm 2009 vay tiếp 200.000.000 đồng, thời hạn trả là 02 năm với mức lãi suất thỏa thuận là 1%/tháng. Đến tháng 04/2010 ông BĐ_Duy, bà BĐ_Đan không còn khả năng chi trả nên ông BĐ_Duy, bà BĐ_Đan thống nhất giao cho ông NĐ_Huy và bà NĐ_Thy một phần đất diện tích 247,4 m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00719....QSDĐ/866/QĐ-UB(HL), đất tọa lạc tại xã TH, huyện TC, tỉnh TN, hai bên có làm chuyển nhượng QSDĐ vào ngày 14/04/2010 và hợp đồng chuyển nhượng này đã được công chứng chứng thực.
66/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2370
- 57
Ngôi nhà đất có giá trị 1.178.771.190đ toạ lạc tại 13/1 Hà Ra, khóm Vạn Lợi, phường VT, thành phố NT, tỉnh KH là di sản của vợ chồng ông Lê Phan (chết 1986), bà Phạm Thị Đó (chết 2008) để lại. Năm 1986 ông Lê Phan chết không để lại di chúc, kể từ đó đến trước khi bà NĐ_Mai khởi kiện, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan không có ai yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Phan theo pháp luật. Vì vậy, di sản của ông Phan vẫn còn đó, dù có còn hay hết thời hiệu khởi kiện cũng như chưa đủ điều kiện chia tài sản chung phần di sản của ông Phan như án sơ thẩm án sơ thẩm xác định thì bà Phạm Thị Đó cũng không có quyền định đoạt đối với phần di sản của ông Phan. Muốn định đoạt đối với phần di sản của ông Phan phải có sự thống nhất của các đồng thừa kế của ông Phan gồm bà Đó và những người con chung của ông bà. Do đó, việc bà Đó lập di chúc ngày 16/5/2003 định đoạt cả phần di sản của ông Phan là không hợp pháp.