434/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1796
- 47
Trong đơn khởi kiện ngày 20/8/2013, đơn khởi kiện bổ sung ngày 03/9/2013 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà NĐ_Phạm Thị Tuyết trình bày: bà có tham gia chơi hụi do bà BĐ_Nguyễn Thị Linh làm chủ thảo. Bà có tham gia chơi 05 dây hụi, cụ thể: - 01 dây hụi 500.000 đồng, hụi khui ngày 05/8/2011; - 01 dây hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 05/11/2011; - 02 dây hụi 500.000 đồng, hụi khui ngày 20/9/2012; - 01 dây hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 15/10/2012; Cách thức chơi hụi là: Thành viên nào bỏ thăm cao (trả lãi cao) thì hốt hụi, không có quy định mức lãi cụ thể, bà BĐ_Linh có nghĩa vụ thu tiền về giao cho người hốt hụi, bà BĐ_Linh được người hốt hụi trả hoa hồng, hụi 500.000 đồng được hưởng 200.000 đồng, hụi 1.000.000 đồng được hưởng 300.000 đồng.
424/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 911
- 18
Tranh chấp hợp đồng mượn tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 07 tháng 7 năm 2011 và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lưu Văn Chức trình bày: Từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010, bà NĐ_Hà có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Vui mượn số tiền 624.000.000 đồng. Nay bà NĐ_Hà đề nghị Tòa án buộc bà BĐ_Nguyễn Thị Vui trả số tiền là 624.000.000 (sáu trăm hai mươi bốn triệu) đồng và lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước tính từ ngày khởi kiện.
18/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 958
- 34
Yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu
Quá trình chung sống, ông Xứng và bà Tứ có tạo lập được tài sản chung là một ngôi nhà và đất tại tổ 11, phường PM, quận ST, TP ĐN. Hiện nay, đã có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được Nhà nước cấp ngày 15/10/2001, đứng tên ông Lê Văn Xứng (chết) và bà Ngô Thị Tứ. Nguồn gốc nhà, đất là do ông Lê Văn Xứng và bà Ngô Thị Tứ khai hoang, ở từ năm nào ông không xác định được. Tuy nhiên, sau khi ông Xứng chết, bà Tứ ở và quản lý ngôi nhà này. Thời gian xây dựng ngôi nhà, ông không nhớ cụ thể, nhưng trong quá trình bà Tứ ở, bà LQ_Lê Thị Phương ở Mỹ về Việt Nam và đứng ra xây lại nhà có cấu trúc là nhà đúc, có gác lửng. Thời gian này, bà Tứ có nuôi người cháu ngoại tên là BĐ_Nguyễn Thị Kim Trúc (con của bà Lê Thị Phẩm).
852/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1334
- 28
Tại đơn khởi kiện ngày 05/5/2013, nguyên đơn bà NĐ_Lê Thị Tuyết Vy trình bày: Bà và ông BĐ_Võ Thanh Phương tự nguyện sống chung, đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã phường TTH, quận Y, thành phố HCM theo giấy chứng nhận kết hôn số 129 quyển số 01/03 ngày 24/9/2003.Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Do hai vợ chồng không hợp nhau từ tính tình đến lối sống, ông BĐ_Phương thường xuyên uống rượu về nhà lớn tiếng và đập phá đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Vì thương con nên bà cố gắng tìm hiểu nhẫn nhịn để mong hàn gắn tinh cảm vợ chồng nhưng không thành.
843/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1377
- 21
Bà NĐ_Hà và ông NĐ_Huỳnh Hoàng Phương chung sống như vợ chồng từ năm 2004 đến ngày 03/6/2010 đãng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TLH, huyện CC, Thành phố HCM. Sau khi cưới, vợ chồng sinh sống bên gia đình bà NĐ_Hà, thời gian đầu rất hạnh phúc, sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông NĐ_Phương cờ bạc, nhậu nhệt không chăm sóc cho gia đình vợ con, bà NĐ_Hà đã nhiều lần khuyên răn nhưng ông NĐ_Phương không thay đổi, từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, đến tháng 9/2011 ông NĐ_Phương bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và ly thân không qua lại cho đến nay.