564/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 876
- 53
Nguyên đơn bà NĐ_Đặng Thị Mỹ Dư trình bày: Năm 1985, hộ gia đình bà có 3 nhân khẩu gồm bà, cha bà là Cụ Phùng Văn Nhơn (chết năm 1997) và em trai là BĐ_Đặng Văn Như được tập đoàn 1, thị trấn TĐ giao khoán tổng cộng 4.500m2 đất nằm ở phường LT hiện nay, tương ứng mỗi nhân khẩu được giao là 1.500m2. Trong 4.500m2 này, tập đoàn khấu trừ 800m2 đất vườn nằm ở phường LC hiện nay, còn lại 3.700m2; nằm bên cạnh có 600m2 đất, không đủ tiêu chuẩn khoán cho hộ khác nên tập đoàn giao luôn cho hộ gia đình bà. Phần đất của cụ Nhon đã bán hết từ năm 1996, lấy tiền xây dựng căn nhà mà hiện nay ông BĐ_Như đang sử dụng.
499/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1410
- 34
Theo Đơn khởi kiện ngày 23/10/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Xuân Phục trình bày: Cha mẹ ông là cụ Nguyễn Yến và cụ Nguyễn Thị Nha, sinh được 06 người con, 03 người con đã chết từ nhỏ nên còn lại 03 người là: Nguyễn Xuân Đức, chết năm 1972 (có vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Thư và con gái là chị LQ_Nguyễn Thị Lai), NĐ_Nguyễn Xuân Phục và BĐ_Nguyễn Xuân Bình. Khi còn sống, cha mẹ ông tạo lập được các tài sản như nhà ở (hiện nay đang do ông BĐ_Bình ở), ruộng vườn, trong đó có vườn dừa gồm 81 cây dừa trên diện tích đất là 6„426m2 với giới cận: Đông giáp suối; Tây giáp Quốc lộ 1A; Nam giáp đất ông Trần Xuân Thức; Bắc giáp đất ông Nguyễn Ngọc Hồ tọa lạc tại Long Thạnh, xã XL, thị xã SC, tỉnh PY. Năm 1984, cụ Yến chết không để lại di chúc, tài sản trên do cụ Nha quản lý. Năm 1998, cụ Nha họp gia đình cùng các con là NĐ_Nguyễn Xuân Phục, BĐ_Nguyễn Xuân Bình và cháu LQ_Nguyễn Thị Lai, có người làm chứng chứng kiến. Theo nội dung biên bản cuộc họp (hiện ông BĐ_Bình đang lưu giữ) thi đất vườn được chia 3 phần bằng nhau cho ông NĐ_Phục, ông BĐ_Bình và cháu LQ_Lai, nhưng sau khi họp không chia cụ thể. Sau khI cụ Nha chết (ngày 19/11/2003), ông BĐ_Bình tiếp tục sử dụng, quản lý các tài sản này.
139/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1714
- 24
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Năm 2004, cụ Đức và cụ Mỹ có đơn yêu cầu hủy bỏ Giấy phép ủy quyền số 224/GP-7 nói trên, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2006, cụ Mỹ và cụ Đức chết. Ngày 12/10/2006, các con của hai cụ lập văn bản ủy quyền cho bà BĐ_Võ Thị Ngọc Lâm định đoạt tất cả những giấy tờ liên quan đến nhà đất 334/3 PVT. Hiện nay, trên đất tranh chấp ngoài căn nhà do cụ Đức xây dựng, còn có nhà của vợ chồng ông LQ_Trực, nhà của cụ Dung (là em của cụ Đức) và một số căn nhà do ông BĐ_Trung xây dựng. Nguyên đơn đồng ý để cụ Dung và vợ chồng ông LQ_Trực tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dung và ông LQ_Trực đang quản lý, nhà đất còn lại yêu cầu bà BĐ_Lâm và gia đình ông BĐ_Trung trả lại. Nguyên đơn đồng ý thanh toán tiền công sức gìn giữ nhà, đất cho ông BĐ_Trung là 3.000.000.000 đồng.
132/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1444
- 41
Tại đơn khởi kiện ngày 10/11/2004 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Võ Thị Loan, ông NĐ_Phạm Thành Cần trình bày: Căn nhà 129 TTV, phường 11, quận Y trên 158m2 đất do ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan mua của cụ LQ_Châu Kỉnh Sang với giá 50 lượng vàng theo hợp đồng mua bán ngày 4/12/2001. Trước khi bán căn nhà trên, cụ LQ_Sang có báo cho ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan biết rõ tình trạng nhà có 03 hộ gồm: cụ BĐ_Trương Mai, ông BĐ_Ô Bỉnh Thứ và bà Ô Huê Hưng đang ở nhờ tại nhà. Do đó, khi mua nhà, ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan phải thương lượng với họ hoặc nhờ Tòa án giải quyết thì mới được nhận nhà. Ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan đồng ý mua và có đến nhà 129 TTV gặp cụ BĐ_Mai, bà Hưng thông báo về việc ông, bà có ý định mua căn nhà này; cụ BĐ_Mai và bà Hưng không có ý kiến gì. Sau đó, ông NĐ_Cần, bà NĐ_Loan tiến hành hợp đồng mua bán nhà với cụ LQ_Sang.
424/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1174
- 28
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Năm 1997, bà BĐ_Nữ đã đồng ý họp thân tộc để chia đất và thống nhất gia đình bà BĐ_Nữ sử dụng 14 diện tích đất, còn lại 14. giao cho thân tộc. Tuy nhiên, sau đó chị BĐ_Ánh không đồng ý chia đất vì chị BĐ_Ánh đang sản xuất trên phần đất có diện tích 15.344m2. Cụ Đinh và cụ Phước có 9 người con gồm các ông bà Nguyễn Thị Lộc, BĐ_Nguyễn Thị Nữ, Nguyễn Văn Ngưng, Nguyễn Thị Điền, Lê Văn Thực, Lê Văn Mài, Nguyễn Văn Mãi, Nguyễn Văn Lăng, Nguyễn Thị Nhẹ, nhưng bà Lộc, ông Ngưng, bà Điền đã chết không có chồng, vợ, con. Ông Thực chết năm 2004, ông Mài chết năm 2001, ông Mãi chết năm 1990, ông Lăng chết năm 1976 (có 7 người con là NĐ_Nguyễn Văn Sâm, LQ_Nguyễn Văn Nghĩa, LQ_Nguyễn Văn Bân, LQ_Nguyễn Thị Nhi, LQ_Nguyễn Thị Duyên, LQ_Nguyễn Văn Ung, LQ_Nguyễn Thị Kim Hảo), bà Nhẹ chết có 5 người con gồm: Ông NĐ_Sỹ, ông LQ_Thịnh, bà LQ_Thư, bà LQ_Giang ,ông LQ_Mạnh. Do đó, các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nữ và chị BĐ_Ánh phải chia 14 tổng diện tích đất của cụ Đinh, cụ Phước để lại cho các nguyên đơn.