cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

181/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 675
  • 40

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-01-2016
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 28/5/2008 và bản tự khai ngày 14/7/2008 đại diện ủy quyền của nguyên đơn – Ông Nguyễn Tâm trình bày: Nguồn gốc phần đất ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu và bà BĐ_Nguyễn Thị Nhi cùng gia đình đang chiếm hữu, sử dụng là của ông Trần Văn Phú (chết năm 1977) và vợ là bà Lê Thị Hưu (chết năm 1994) có diện tích khoản 6.000m2 tọa lạc tại địa chỉ 2941/15 PTH, Phường 7, Quận X, Tp.HCM. Ông Phú và bà Hưu có 01 người con nuôi duy nhất là ông NĐ_Trần Văn Dương. Năm 1976 ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu là cán bộ tập kết có mượn, ở nhờ trên phần đất này. Năm 1989 ông NĐ_Trần Văn Dương có bán cho ông BĐ_Hữu bằng giấy tay một phần ao khoảng 3.500m2, phần đất còn lại mà ông BĐ_Hữu và gia đình chiếm dụng ông NĐ_Dương đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Hữu hoàn trả nhưng không thành. Sau đó ông BĐ_Hữu đã sang nhượng đất lại cho nhiều người.


170/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2188
  • 56

Tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản

26-01-2016
TAND cấp tỉnh

Ngày 02/08/2010, ông NĐ_Nguyễn Minh Hòa và bà LQ_Nguyễn Thị Minh Trinh có ký hợp đồng thế chấp số 120/EIB BR-TDTH/BLTS/10 bảo lãnh cho bà Tống Thị Ái, Nguyễn Ngọc Thạch, Lê Hữu Vân Phương vay tại Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – Chi nhánh Bà Rịa số tiền là 7,5 tỷ đồng. Ngày 29/07/2014 ông NĐ_Nguyễn Minh Hòa đến Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (EIB) – Chi nhánh Bà Rịa nộp tiền trả nợ vay và trả thay cho những người vay mà ông NĐ_Hòa – bà LQ_Trinh đã bảo lãnh. Số tiền mà ông NĐ_Hòa trả nợ cho bà Ái gốc là 4,0 tỷ đồng, trong khi nghĩa vụ bảo lãnh là 3,5 tỷ đồng. Sau khi phát hiện sai sót ông NĐ_Hòa đã có văn bản yêu cầu EIB trả lại cho ông NĐ_Hòa – bà LQ_Trinh số tiền đã trả dư nhưng EIB không giải quyết.


69/2016/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1703
  • 28

Ly hôn

23-01-2016
TAND cấp tỉnh

Sau khi kết hôn, vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc. Đến năm 2010, hai người chuyển về chung sống cùng gia đình ông BĐ_Hận ở Tây Ninh thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau về tính tình, cách sống, cách cư xử đối với cha, mẹ và anh chị em nhà chồng. Sau đó vợ chồng bà chuyển xuống Sài Gòn sinh sống, làm ăn nhưng vợ chồng không còn hạnh phúc như trước, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt và hay xảy ra xô xát nên từ tháng 05/2015 bà đã ra sống riêng. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và để ổn định cuộc sống nên bà xin ly hôn với ông BĐ_Hận. Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Minh Phát, sinh ngày 24/11/2011, bà xin được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông BĐ_Hận cấp dưỡng nuôi con. Hiện con đang sống với bà, bà NĐ_Bình đang làm Kế toán tại Công ty TNHH-TM-DV Thu Thiện – Nhà hàng ẩm thực 2 ở Quận 7 với mức lương hàng tháng là 7.200.000 đồng. Về tài sản chung và nợ chung: Bà NĐ_Bình khai không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.


99/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1492
  • 86

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

15-01-2016
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Kim trình bày: Năm 2011 bà có nhờ bà LQ_Phạm Thị Sinh – địa chỉ: 38A tổ 5, đường 102, khu phố 7, phường TNP A, Quận X, Tp.HCM đi cầm giấy tờ đất để vay số tiền là 10.000.000 đồng, thời hạn vay 2 tháng. Bà đã giao bản chính giấy tờ đất số BB474360 ngày 05/7/2010 (số vào sổ cấp GCN: CH00417 do Ủy ban nhân dân Quận X cấp cho hộ bà NĐ_Nguyễn Thị Kim) cho bà LQ_Sinh và bà LQ_Sinh đưa cho bà số tiền 10.000.000 đồng. Việc giao nhận tiền và giao bản chính giấy tờ đất giữa bà và bà LQ_Sinh đều không lập giấy tờ. Bà LQ_Sinh đem giấy tờ đất của bà đi cầm cho ai bà không rõ nhưng sau đó bà LQ_Sinh nói với bà đi ra phòng công chứng ký hợp đồng cho bà LQ_Sinh mượn giấy tờ đất. Khi ký hợp đồng tại phòng công chứng, bà không biết chữ nên không đọc được và không được nghe ai đọc nội dung hợp đồng nhưng do tin bà LQ_Sinh nên bà ký vào hợp đồng. Khi ký xong thì người đi cùng bà LQ_Sinh đưa cho bà số tiền 2.900.000 đồng nói cho để bà làm vốn mua ve chai. Đến tháng 8/2011 có người xuống nhà bà gặp chồng và các con bà yêu cầu giao đất và đưa hợp đồng ủy quyền công chứng ra thì bà mới biết bị lừa dối ký vào hợp đồng ủy quyền cho bà BĐ_Lê Thị Hoa.


52/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1741
  • 42

Ly hôn

15-01-2016
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện nộp ngày 06/11/2014, bản tự khai ngày 03/12/2014, bà NĐ_Trần Thị Kim Thủy trình bày: Bà NĐ_Thủy và ông BĐ_Hei Kimhuns kết hôn hợp pháp và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 29/03/2010, vào Sổ đăng ký kết hôn số 1137 quyển số 04 ngày 30/03/2010. Bà và ông BĐ_Hei Kimhuns đính hôn vào tháng 04/2009, sau 02 tuần lễ gặp gỡ, làm quen và tìm hiểu, đến tháng 03/2010 thì đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung tại Việt Nam được 02 tuần rồi ông BĐ_Hei Kimhuns trở về Mỹ. Đến tháng 01/2011 ông BĐ_Kimhuns về Việt Nam chữa bệnh và thăm vợ được 03 tuần rồi lại trở về Mỹ. Thời gian này, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Theo bà, nguyên nhân mâu thuẫn là do kết hôn vội vàng nên hai bên đã không tìm hiểu nhau kỹ, dẫn đến không hiểu nhau và chưa thực sự có tình cảm với nhau. Bắt đầu vợ chồng ít liên lạc với nhau và đến tháng 03/2011 thì chấm dứt liên lạc.