49/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1225
- 33
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi lại nhà cho ở nhờ
Cùng ngày 20/12/1971, bà ký 2 hợp đồng mua của bà Phạm Thị Nghĩa căn nhà số 105 và mua của bà Trần Thị Nga căn nhà số 107 cùng tọa lạc tại đường số 6, bến PTH, khóm 5 Liên Gia 26, phường CH, quận X, đô thành SG cũ, giấy tờ mua bán đều được chính quyền chế độ cũ xác nhận; nay mang số kép là 105-107 ĐCL, phường 4, quận X Thành phố HCM. Sau 1975, bà xuất cảnh sang Hoa Kỳ, nên ủy quyền cho chồng bà là ông Nguyễn Kim Paul quản lý, sử dụng. Quá trình sử dụng nhà, ông Paul đã đưa bà BĐ_Linh về sống chung tại nhà tranh chấp trên. Ngày 01/7/2002, ông Paul chết. Ngày 14/7/2002, bà lập hợp đồng ủy quyền cho bà BĐ_Linh quản lý nhà đất này suốt đời với điều kiện không được thế chấp, cầm cố, cho thuê hoặc chuyển dịch quyền sở hữu dưới bất kỳ hình thức nào, mọi sự thay đổi kiến trúc phải có ý kiến của bà. Nhưng trong thời gian quản lý nhà, bà BĐ_Linh tự ý cho người khác thuê nhà, không được sự đồng ý của bà. Năm 2006, bà về Việt Nam bị bà BĐ_Linh đuổi ra khỏi căn nhà phải nhờ chính quyền can thiệp. Bà yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền quản lý nhà, bà BĐ_Linh phải trả lại nhà, bà đồng ý hỗ trợ bà BĐ_Linh 30.000.000đ để tìm nơi khác ở.
75/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 500
- 7
Theo bằng khoán điền thổ (tiếng Pháp), các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thì nhà đất tranh chấp tại Đường Hàng Lọng số 77, Bằng khoán điền thổ số 293, ĐK, HN, nay là số 75-77 LD, phường CN, HK, HN có nguồn gốc là của cố Trần Thị Bàn đứng tên mua năm 1941. Sau đó, cố Bàn cho cháu ngoại là cụ NĐ_Trần Thị Nga toàn bộ nhà đất đã mua theo chúc thư ngày 15/7/1941. Năm 1944, cụ NĐ_Nga kết hôn với cụ Phạm Ngọc Yến và về ở tại nhà đất này. Năm 1946, cụ NĐ_Nga và cụ Yến đã sang tên trên bằng khoán điền thổ. Năm 2000, cụ Yến chết không để lại di chúc. Năm 2003, cụ NĐ_Nga được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà 120m2, diện tích đất 253m2.
264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 805
- 9
Năm 2006, cụ Đệ chết có để lại di chúc lập ngày 25/4/2005 (do ông Chu Văn Đinh Viết và có hai người làm chứng là bà Hoàng Thị Lịch, ông Trần Văn Đức) với nội dung sau khi cụ chết thì người thừa kế toàn bộ nhà đất tại 11 THĐ là bà NĐ_Mai Thị Liên (BL5). Với nội dung trên nguyên đơn bà NĐ_Mai Thị Liên khởi kiện yêu cầu các đồng thừa kế là ông LQ_Quan, ông LQ_Bảo, ông LQ_Tài, bà BĐ_Linh và bà LQ_Hằng giao nhà đất cho bà. Nếu di chúc không hợp pháp, bà yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.
264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 502
- 3
Ngày 31/9/1958 vợ chồng ông Ngô Trọng Hoè và bà Nguyễn Thị Tỉnh chuyển nhượng cho vợ chồng cụ Mai Văn Tích và cụ Nguyễn Thị Đệ nhà và đất tại 11 THĐ, phường CL, thành phố LS, tỉnh LS. Cụ Tích và cụ Đệ có 05 người con là ông LQ_Mai Văn Bảo, bà BĐ_Mai Thị Linh, ông LQ_Mai Văn Tài, bà LQ_Mai Thị Hằng, NĐ_Mai Thị Liên, ông LQ_Mai Văn Quan là con riêng của cụ Tích (nhưng được cụ Đệ nuôi từ nhỏ và coi như con). Năm 1973, cụ Tích chết không để lại di chúc. Ngày 29/01/2003 hộ cụ Đệ được cấp GCNQSD đất 146,2m2, tại số 11 THĐ, phường CL, tp LS, tỉnh LS.
264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 636
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
Từ năm 2006 giữa bà NĐ_Như với vợ chồng anh BĐ_Chiến phát sinh mâu thuẫn. Ngày 20/9/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Như đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh BĐ_Chiến phải tháo dỡ nhà tắm, tường rào và tiệm uốn tóc để trả lại nhà đất cho bà NĐ_Như. Anh BĐ_Nguyễn Trung Chiến không đồng ý trả lại nhà và đất cho bà NĐ_Như, anh BĐ_Chiến cho rằng anh sống với cụ Thảnh từ nhỏ, có chung hộ khẩu với cụ Thảnh, cụ Thảnh chết để lại nhà và đất cho anh.