44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 390
- 6
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý
44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1203
- 28
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và đòi lại nhà cho ở nhờ
Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý
379/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2289
- 35
Theo các đơn khởi kiện ngày 29-10-2003 (BL06), ngày 29-10-2003 (BL08) và đơn ngày 29-10-2003 đề nghị ngăn chặn việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị NĐ_Ngô Thị Cư trình bày ông nội của chị là cụ Ngô Văn Phòng, chết năm 1975 và bà nội là cụ Nguyễn Thị Tươi, chết ngày 9-6-1995 sinh được 4 người con, là: 1. Ông BĐ_Ngô Tấn Linh, sinh năm 1958; 2. Bà Ngô Thị Nhứt, chết ngày 22-12-1982, có 3 người con là LQ_Lê Thị Hạ, LQ_Lê Thị Di và LQ_Lê Thị Khanh; 3. Bà LQ_Ngô Thị Mừng, sinh năm 1964.
43/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 548
- 4
Tại đơn khởi kiện ngày 06-6-2003 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Lương Thị Linh trình bày: Năm 1969, bà LQ_Lương Thị Chi, bà BĐ_Lương Thị Mến và bà (là ba chị em ruột) đã hùn tiền mua chung căn nhà số 2215-5 cư xá Kiến Thiết, đường TMK, quận PN (nay là nhà số 176/8 đường ĐVN, phường X, quận PN, thành phố HCM) của ông Cao Văn Hơn với giá là 70.000 đồng (trong đó bà góp 7000 đồng), do bà LQ_Chi đứng tên tại giấy tờ mua nhà. Sau đó, ba chị em bà và cháu LQ_Lương Văn Để (con bà BĐ_Mến) đã chuyển vào nhà này ở và đến năm 1976 ông BĐ_Nguyễn Văn Xã (chồng bà BĐ_Mến) cũng chuyển về ở tại nhà này.
42/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 512
- 2
Tranh chấp quyền sở hữu máy xúc
NĐ_Công ty có chiếc máy xúc hiệu DAEOO/SOLAR 130W-III có số khung SL 130W-1955, số máy DB58-400258, mua của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thương mại và Dịch vụ Thiên Hà (gọi tắt là Công ty Thiên Hà) vào ngày 18-4-2003 với số tiền 134.925.000 đồng, theo hóa đơn giá trị gia tăng số CN 047204. Sau khi mua được máy, NĐ_Công ty XYA đã đưa máy xúc lên thi công tại công trình đường giao thông nông thôn huyện BY, tỉnh Sơn LA. NĐ_Công ty XYA ký hợp đồng giao cho ông BĐ_Nguyễn Văn Phi trực tiếp khai thác quản lý máy. Ông BĐ_Phi không thực hiện hợp đồng, đưa máy về làm riêng. Hết thời hạn, ông BĐ_Phi không giao máy và nộp tiền cho NĐ_Công ty XYA. Ông Nho đề nghị Tòa án xác nhận chiếc máy xúc trên thuộc quyền sở hữu của NĐ_Công ty XYA, buộc ông BĐ_Phi trả máy và số tiền thuê máy là 152.000.000 đồng.